Đổi mới tư duy pháp lý ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay
Tác giả: ThS. Đỗ Thanh Trung
TÓM TẮT
Kết cấu bài viết này gồm có 3 phần. Phần thứ nhất nhận diện một số xu hướng đổi mới tư duy pháp lý chủ yếu ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới. Phần thứ hai nêu lên những hạn chế trong quá trình đổi mới tư duy pháp lý ở Việt Nam. Phần thứ ba đề xuất một số giải pháp cần thực hiện ở Việt Nam hiện nay.
Xem thêm bài viết về “Tư duy pháp lý”
Tư duy pháp lý là một khái niệm trừu tượng và có nhiều cách hiểu khác nhau.Tuy nhiên, theo nghĩa chung nhất, có thể hiểu, tư duy pháp lý là một hình thức biểu hiện của tư duy trong một lĩnh vực cụ thể.[1] Cụ thể hơn, tư duy pháp lý là một dạng đặc biệt của hoạt động trí tuệ nhằm phân tích đánh giá các vấn đề xã hội dưới góc độ pháp luật, có liên quan đến giải quyết các vấn đề pháp lý trên cơ sở các khái niệm, lập luận pháp lý.[2] Tư duy pháp lý biểu hiện ở nhiều cấp độ, khía cạnh khác nhau như, các học thuyết pháp lý (ví dụ, học thuyết pháp luật tự nhiên, pháp luật thực chứng…), tư duy pháp lý đặc thù của truyền thống pháp luật (hệ thống pháp luật common law, civil law..), tư duy pháp lý trong các lĩnh vực pháp lý chuyên ngành (ví dụ, pháp luật dân sự, hình sự)… Nhìn chung, tư duy pháp lý có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật. Ở mỗi quốc gia, tư duy pháp lý luôn có quá trình vận động và phát triển nhằm đáp ứng với yêu cầu xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Phạm vi bài viết tập trung nghiên cứu quá trình đổi mới tư duy pháp lý ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Trong giai đoạn từ năm 1959 đến trước năm 1986, tư duy pháp lý ở Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ hệ thống tư duy pháp lý xã hội chủ nghĩa (XHCN). Hầu hết những đặc điểm đặc thù của tư duy pháp lý XHCN đều được tiếp nhận trong hệ thống tư duy pháp lý ở Việt Nam, ví dụ về nguyên tắc, đề cao nguyên tắc tập quyền XHCN và nguyên tắc pháp chế XHCN; về nguồn luật, chỉ thừa nhận nguồn luật văn bản pháp luật thành văn; về hệ thống và bản chất pháp luật, phân chia hệ thống pháp luật ngành luật khác nhau, dựa trên luận điểm giai cấp để xác định nguồn gốc, bản chất và chức năng của pháp luật… Kể từ năm 1986, Việt Nam bước sang giai đoạn mới chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, chuyển từ mô hình dân chủ XHCN đề cao hình thức dân chủ đại diện sang mô hình dân chủ pháp quyền, bên cạnh hình thức dân chủ đại diện còn tập trung phát triển hình thức dân chủ trực tiếp nhằm đáp ứng với yêu cầu thực tiễn xã hội. Quá trình này cũng đã dẫn đến nhu cầu cần phải thay đổi tư duy pháp lý ở Việt Nam.
1. Nhận diện một số xu hướng đổi mới tư duy pháp lý chủ yếu ở Việt Nam
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng cộng sản Việt Nam đã thay đổi đường lối, chủ trương của mình trong quá trình xây dựng XHCN ở Việt Nam. Từ quan niệm đặt nặng mục tiêu giải quyết vấn đề mâu thuẫn giai cấp, lợi ích giai cấp chuyển sang tư duy cần thiết phải quan tâm hơn đến việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, phát huy dân chủ xã hội. Đặc biệt, đến Đại hội Đảng lần thứ X, đảng ta đã xác định rõ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đứng trước thực trạng này, nếu chỉ dựa trên luận điểm giai cấp để lý giải về bản chất, chức năng, vai trò của pháp luật… thì khó có thể phù hợp với yêu cầu thực tế đặt ra. Vì vậy, các học giả pháp lý Việt Nam cần phải tích cực thay đổi tư duy pháp lý nhằm tiếp nhận các học thuyết, quan điểm pháp lý trước yêu cầu thực tiễn. Nhìn chung, song song với quá trình đổi mới đất nước cũng đã hình thành những xu hướng đổi mới tư duy pháp lý chủ yếu như sau:
Thứ nhất, ở khía cạnh học thuyết pháp lý, có xu hướng tiếp nhận các học thuyết pháp lý mới ngoài học thuyết pháp lý XHCN theo chủ nghĩa Marx – Lenin. Từ thập niên 60 đến những năm 80, hầu như trong lĩnh vực lý luận pháp luật ở Việt Nam về cơ bản căn cứ vào học thuyết của chủ nghĩa Marx – Lenin về nhà nước và pháp luật. Học thuyết này cho rằng, pháp luật là sản phẩm của quá trình đấu tranh giai cấp nên pháp luật mang bản chất giai cấp. Mặc dù pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhưng trước hết và chủ yếu nó luôn phản ánh ý chí và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Khi nói về pháp luật tư sản, Marx cho rằng: “pháp luật của các người chẳng qua là ý chí của các người được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung của nó được quy định bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các người”.[3] Tuy nhiên, nếu chỉ thừa nhận một học thuyết pháp lý hay một phương pháp luận duy nhất thì có lẽ sẽ không đủ sức để giải quyết các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn đặt ra. Chẳng hạn, nếu quan niệm pháp luật có nguồn gốc từ nhà nước và phản ánh ý chí của giai cấp thống trị thì khó có thể lý giải tính khách quan, tính xã hội của pháp luật. Hoặc, quan niệm pháp chế XHCN của lý luận pháp lý XHCN quá đề cao sự tuân thủ pháp luật làm cho các cơ quan công quyền ra các quyết định chỉ chú trọng đến tính hợp pháp mà không quan tâm đến tính hợp lý. Chẳng hạn, vụ việc nông dân nuôi gà phải hủy hàng chục ngàn con gà vì bị đại dịch nên trắng tay, không có tiền trả cho đại lý thức ăn, nhưng tòa án tuyên buộc những người nông dân phải trả nợ ngay cho chủ nợ nếu không sẽ phong tỏa số tiền hỗ trợ 5000 đồng/ con gà để chuyển cho chủ nợ.[4]
Kể từ năm 1992, các nhà lý luận pháp luật Việt Nam đã tích cực tiếp thu các học thuyết pháp lý mới, phương pháp luận mới. Trong đó, lý luận của trường phái xã hội học pháp luật là một trong những trường phái được tiếp cận sớm nhất ngay từ đầu thời kỳ đổi mới.[5] Xã hội học pháp luật đưa ra phương pháp luận và nghiên cứu pháp luật dưới góc độ xã hội chứ không phải là các quy phạm pháp luật thuần túy tách biệt khỏi các nhân tố xã hội như quan điểm của các nhà thực chứng pháp lý.[6] Các nhà xã hội học pháp luật đưa ra những phạm trù pháp lý mới, phương pháp luận mới để nghiên cứu và giải quyết các vấn đề pháp lý khá hấp dẫn. Theo đó, pháp luật không chỉ là những quy phạm do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận mang trong đó ý chí của nhà nước và được “gói” trong một dạng văn bản nào đó, mà pháp luật được hình thành trong cuộc sống, trong thực tiễn, trong hành vi của con người, xã hội. Pháp luật chính là hành vi thực tế của chủ thể quan hệ pháp luật. Pháp luật theo trường phái này cũng còn được gọi là “pháp luật sống” (living law), pháp luật có mục đích và chức năng tạo sự đồng thuận và hài hòa của xã hội. Pháp luật phải là công cụ điều tiết và thỏa hiệp lợi ích trong xã hội.[7] Như vậy, xã hội học pháp luật chỉ ra cơ sở khách quan tồn tại trong xã hội đối với các hoạt động: xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, xây dựng ý thức và hành vi pháp luật đúng đắn. Đến nay, các hoạt động nghiên cứu về xã hội học pháp luật ở Việt Nam đã được triển khai trên cả hai bình diện: xã hội học pháp luật lý luận[8] và xã hội học pháp luật ứng dụng.[9] Nhiều sản phẩm khoa học pháp lý từ các bài viết tạp chí đơn giản đến các công trình có tính hệ thống và khoa học cao như sách chuyên khảo, giáo trình giới thiệu về xã hội học pháp luật lần lượt được xuất bản ở Việt Nam.[10] Bên cạnh đó, các học thuyết pháp lý khác như, học thuyết pháp luật tự nhiên (doctrine of natural law), học thuyết pháp luật thực chứng (legal positivism), lý thuyết kinh tế luật (economic analysis of law)… cũng đã du nhập vào Việt Nam nhưng chưa thật sự phổ biến.[11]
Thứ hai, thay đổi từ tư duy xem nhẹ vai trò của pháp luật đối với kinh tế trong nền kinh tế tập trung sang quan niệm cho rằng cần phải tích cực phát huy vai trò của pháp luật trong quản lý nền kinh tế thị trường là yêu cầu tất yếu khách quan. Hướng thay đổi tư duy pháp lý này chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề đặt ra từ yêu cầu của nền kinh tế thị trường như: thay đổi chủ trương, chính sách phù hợp với quy luật thị trường (Hiến pháp), tạo ra khuôn khổ pháp lý nhằm thúc đẩy các giao lưu dân sự (Bộ luật Dân sự), xây dựng chế định pháp luật phù hợp về tổ chức và quản lý doanh nghiệp là chủ thể chủ yếu tham gia vào thị trường (luật công ty, luật doanh nghiệp), xây dựng chế định pháp luật nhằm bảo đảm môi trường thị trường cạnh tranh tự do (luật cạnh tranh), xây dựng khung pháp lý vật chất phục vụ cho các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường nhằm tạo lập và thúc đẩy sự phát triển đối với các thị trường về tài chính, lao động, đất đai, đầu tư…. Biểu hiện rõ ràng của hướng thay đổi tư duy pháp lý này là sự ra đời của hàng loạt các bộ luật, luật, các văn bản dưới luật trong lĩnh vực pháp luật tư như: Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989, Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Thương mại năm 1997, Luật Cạnh tranh năm 2004…
Thứ ba, thay đổi từ quan niệm xây dựng mô hình dân chủ XHCN đề cao hình thức dân chủ đại diện chuyển sang tư tưởng xây dựng mô hình dân chủ pháp quyền đa dạng về hình thức dân chủ, phát triển hình thức dân chủ trực tiếp. Tư tưởng pháp lý này trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong lĩnh vực pháp luật hiến pháp. Hàng loạt các đề tài khoa học, công trình nghiên cứu về chủ đề: Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã công bố sau năm 1992.[12] Xu hướng thay đổi tư duy pháp lý này được triển khai trên cơ sở pháp luật cần phải trở thành công cụ hữu hiệu quy định và giải quyết các vấn đề như: kiểm soát quyền lực nhà nước; giám sát quyền lực nhà nước từ bên ngoài xã hội; bảo đảm và thực thi các quyền con người, cải cách và độc lập tư pháp, cải cách nền hành chính quốc gia tránh tình trạng quan liêu gây phiền hà, tổ chức chính quyền địa phương theo hướng có sự phân cấp rõ ràng của chính quyền trung ương và chính quyền địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương. Rất nhiều biểu hiện của xu hướng thay đổi tư duy pháp lý này trong các văn bản pháp luật mới được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung. Đặc biệt là những sự thay đổi, bổ sung của Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận rõ ràng và đầy đủ hơn nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước, hình thức dân chủ trực tiếp, ghi nhận đầy đủ các quyền cơ bản của con người, dần thay thế nguyên tắc pháp chế XHCN bằng nguyên tắc pháp quyền XHCN. Điều 12 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Nhưng đến Hiến pháp năm 2013, tại khoản 1 Điều 8 chỉ quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật” và giữ nguyên nguyên tắc pháp quyền XHCN tại Điều 2 Hiến pháp 1992 bổ sung năm 2001: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Ngoài ra, xu hướng này còn biểu hiện thông qua việc ban hành nhiều đạo luật, bộ luật nhằm thực thi quyền dân chủ, tự do của con người ngày càng tốt hơn. Chẳng hạn, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016…
Thứ tư, có xu hướng đa dạng hóa nguồn luật hướng đến thừa nhận và phát triển hình thức tiền lệ pháp và tập quán pháp để bổ sung cho nguồn văn bản quy phạm pháp luật. Theo quan điểm của các luật gia Xô viết, nguồn (hình thức pháp luật) văn bản quy phạm pháp luật mang tính tiến bộ nhất. Vì vậy, nguồn luật được thừa nhận và áp dụng phổ biến trong pháp luật XHCN là văn bản quy phạm pháp luật.[13] Quan niệm này phần nào cũng xuất phát từ yêu cầu của nguyên tắc pháp chế XHCN bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất trong phạm vi cả nước và yêu cầu của nguyên tắc tập quyền XHCN tập trung quyền lực vào cơ quan đại diện cao nhất. Do đó, vai trò giải thích pháp luật chủ yếu giao cho cơ quan thường trực của cơ quan đại diện cao nhất, ví dụ như Ủy ban Thường vụ Quốc hội ở Việt Nam. Điều này dẫn đến quan niệm cho rằng, tòa án đơn giản chỉ là cơ quan áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc cụ thể chứ không được trao quyền giải thích pháp luật hay sáng tạo pháp luật. Nghịch lý ở chỗ, tòa án là cơ quan áp dụng pháp luật nhưng lại không được trao quyền giải thích pháp luật. Thực tiễn tư pháp ở Việt Nam cho thấy, nguồn luật văn bản quy phạm pháp luật không đủ sức giải quyết các vấn đề pháp lý mới đặt ra, đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự. Mặc dù, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) của Việt Nam đã sử dụng nhiều cách thức khác nhau để khắc phục các “lỗ hổng” của pháp luật như: ban hành Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán, hướng dẫn công tác xét xử cho các tòa án thông qua tổng kết kinh nghiệm xét xử hàng năm… nhưng, các biện pháp này dường như cũng không thể đủ sức để giải quyết các vấn đề pháp lý mới một cách kịp thời, đầy đủ và có hiệu quả. Chẳng hạn, thực tế ở Việt Nam có rất nhiều giao dịch dân sự liên quan đến mua bán nhà thuộc sở hữu nhà nước đối với những căn nhà được Nhà nước cho thuê nhưng chưa được quyền hợp thức hóa để trở thành chủ sở hữu. Trong quá trình hợp thức hóa (tức chưa chính thức là chủ sở hữu), người này ký hợp đồng với người khác để chuyển nhượng tài sản đến khi hợp thức hóa được quyền sở hữu thì hai bên sẽ ra công chứng hoàn tất thủ tục. Các tòa án thường lúng túng xác định hiệu lực của các giao dịch này là có công nhận hay không công nhận khi giải quyết tranh chấp. Trong thực tế, TANDTC có nhiều quyết định giám đốc thẩm theo hướng áp dụng quy định về “giao dịch dân sự có điều kiện” có giá trị hướng dẫn áp dụng pháp luật cho các tòa án… Trước thực trạng này, khuynh hướng thừa nhận nguồn luật án lệ và tập quán bổ sung cho văn bản quy phạm pháp luật trở thành yêu cầu tất yếu.
Năm 2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48 – NQ/TW và Nghị quyết 49 – NQ/TW trong đó xác định việc “Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán” cũng như “Tòa án nhân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ… từng bước thực hiện công khai hóa bản án”. Bắt đầu từ thời điểm này, rất nhiều công trình khoa học của các học giả Việt Nam nghiên cứu về án lệ như, bài viết tạp chí, luận văn cao học, luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo, đề tài nghiên cứu khoa học….[14] Mục đích chủ yếu là đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng và áp dụng án lệ có hiệu quả ở Việt Nam. Tương tự vậy, các công trình nghiên cứu về nguồn luật tập quán cũng bắt đầu xuất hiện nhiều hơn ở Việt Nam trong thời gian gần đây.[15] Về phương diện pháp luật thực định, các văn bản quy phạm mới ban hành trong thời gian gần đây cũng đã ghi nhận chính thức giá trị pháp lý của án lệ, chức năng thi hành và áp dụng án lệ của tòa án. Ví dụ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nghị quyết 03 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC năm 2015.
Thứ năm, bắt đầu tiếp nhận lý luận phân chia hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư giống như các nước thuộc truyền thống pháp luật châu Âu lục địa. Lenin đã cho rằng: “Chúng ta không công nhận một cái gì là “tư” cả, đối với chúng ta mọi thứ trong lĩnh vực kinh tế quốc dân đều là luật công chứ không phải luật tư”.[16] Dựa trên cơ sở tư tưởng này, các luật gia Xô viết không chấp nhận lý luận phân chia hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư mà sáng tạo riêng cho mình một kiểu phân chia hoàn toàn mới. Theo đó, hệ thống pháp luật được phân chia thành nhiều ngành luật khác nhau dựa trên căn cứ là đối tượng điều chỉnh (loại quan hệ xã hội hay lĩnh vực quan hệ xã hội) và phương pháp điều chỉnh (cách thức tác động của pháp luật lên đối tượng điều chỉnh của ngành luật). Trong đó, hệ thống pháp luật có cấu trúc tồn tại như sau: quy phạm pháp luật là yếu tố nhỏ nhất, chế định pháp luật là một các quy phạm có cùng tính chất, ngành luật bao gồm nhiều chế định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định. Chẳng hạn, Giáo sư tiến sĩ Mansep, G.V đưa ra định nghĩa về hệ thống pháp luật: “Hệ thống pháp luật XHCN là cơ cấu bên trong của pháp luật XHCN, được quy định bởi chế độ kinh tế xã hội, biểu hiện tính thống nhất và hài hòa bên trong của các quy phạm pháp luật và sự cần thiết phải phân thành các ngành và các chế định khác nhau, phù hợp với các đặc điểm quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh”.[17] Cơ sở lý luận phân chia hệ thống pháp luật theo lý luận của luật gia Xô viết cũng được tiếp nhận và tồn tại phổ biến trong lý luận pháp luật ở Việt Nam trong một thời gian dài.[18] Đến nay, nhiều quan điểm vẫn cho rằng hệ thống pháp luật Việt Nam được phân chia thành 12 ngành luật.
Mặc dù vậy, cách thức phân chia này dường như chưa thể thỏa mãn về mặt lý luận lẫn không phù hợp với yêu cầu của thực tiễn pháp lý. Về mặt lý luận, trước hết, phương pháp điều chỉnh được xem là căn cứ để phân định các ngành luật nghĩa là mỗi ngành luật sẽ có phương pháp điều chỉnh riêng. Mặc dù có đến 12 ngành luật được phân chia nhưng chỉ có 2 phương pháp điều chỉnh được nêu ra là phương pháp mệnh lệnh và phương pháp bình đẳng thỏa thuận. Thứ hai, cơ sở lập luận để phân chia các lĩnh vực quan hệ xã hội – đối tượng điều chỉnh không rõ ràng nên có thể dễ dàng tách hoặc nhập các ngành luật tùy theo quan điểm chủ quan của chủ thể nhận thức. Thứ ba, do tính đan xen phức tạp của các quan hệ xã hội nên rất khó khăn để có thể phân chia rạch ròi giữa các lĩnh vực quan hệ xã hội. Về mặt thực tiễn, nhiều vấn đề bất cập phát sinh từ quan niệm phân chia hệ thống pháp luật này. Chẳng hạn, nhiều chuyên gia luật dân sự cho rằng chế định pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện đang bị chia cắt vụn vặt. Các loại hợp đồng khác nhau sẽ được điều chỉnh bởi các ngành luật khác nhau, ví dụ như, hợp đồng dân sự được điều chỉnh bởi ngành luật dân sự (quy định ở Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005), còn hợp đồng kinh tế được điều chỉnh bởi ngành luật kinh tế (chủ yếu được quy định trong Luật thương mại năm 2005. Điều này dẫn đến hệ quả là một số quy định cụ thể của pháp luật đối với hai loại hợp đồng này rất khác nhau. Chẳng hạn, chế tài phạt trong hợp đồng dân sự do các bên thỏa thuận và không có giới hạn mức phạt nhưng đối với hợp đồng kinh tế thì giới hạn mức phạt không quá 8% giá trị của phần nghĩa vụ vi phạm. Vì vậy, trong thời gian qua, tư duy pháp lý phân chia hệ thống pháp luật thành lĩnh vực pháp luật công và pháp luật tư dần dần được tiếp nhận ở Việt Nam. Có thể nhận diện xu hướng này thông qua những thay đổi của các văn bản pháp luật trong thời gian gần đây. Chẳng hạn, sự ra đời của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động mà trước đó có đến 3 văn bản pháp luật tố tụng khác nhau quy định. Gần đây nhất, BLDS vừa mới ban hành năm 2015, khái niệm “Hợp đồng” trong BLDS 2015 đã cắt đi cái đuôi “dân sự” tồn tại trên 20 năm nay từ BLDS năm 1995 đến BLDS 2015 nhằm đưa chế định hợp đồng về đúng vị trí của nó là một chế định cơ bản của luật dân sự theo nghĩa rộng (luật tư).
2. Một số bất cập, hạn chế còn tồn tại trong quá trình đổi mới tư duy pháp lý ở Việt Nam
Trong giai đoạn đổi mới và xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, đổi mới tư duy pháp lý trở thành vấn đề cấp bách và vô cùng quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền nói riêng và góp phần phát triển đất nước nói chung. Mặc dù tư duy pháp lý ở Việt Nam có nhiều hướng thay đổi tích cực, phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra, tuy nhiên, theo chúng tôi, quá trình đổi mới tư duy pháp lý ở Việt Nam trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số hạn chế chủ yếu sau:
Thứ nhất, tư duy lý luận pháp luật XHCN vẫn còn giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực lý luận pháp luật hiện nay. Đến nay, các giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật vẫn gần như chủ yếu dựa trên hệ thống lý luận pháp luật XHCN. Hoạt động giảng dạy trong các trường đại học, cơ sở đào tạo pháp luật về cơ bản vẫn sử dụng các giáo trình này. Thực tế, vẫn còn rất ít các giáo trình, sách chuyên khảo để giới thiệu, đào tạo các học thuyết pháp lý mới. Mặt khác, có thể dễ dàng thấy trong các công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam như, luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu khoa học…, việc sử dụng các phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử theo chủ nghĩa Marx – Lenin đã trở thành khuôn mẫu. Đây là phương pháp của triết học nên vẫn còn thiếu các phương pháp luận riêng biệt của khoa học pháp lý dựa trên các học thuyết pháp lý để nghiên cứu đánh giá các hiện tượng pháp lý.
Thứ hai, vẫn còn khá phổ biến tình trạng chiết trung, gán ghép khi tiếp nhận tư duy pháp lý mới. Trong thời kỳ đổi mới, điều rất cần thiết là phải có những tư duy pháp lý mới làm cơ sở tư tưởng cho việc ban hành các văn bản pháp luật mà Việt Nam chưa có kinh nghiệm. Vì vậy, xu hướng tiếp nhận pháp luật nước ngoài trở thành xu hướng tất yếu. Tiếp nhận pháp luật nước ngoài thông qua nhiều con đường, biện pháp khác nhau như mời các chuyên gia pháp lý nước ngoài, so sánh pháp luật nước ngoài…Tuy nhiên, cũng từ đây dẫn đến lối tư duy pháp lý theo kiểu lắp ghép. Chẳng hạn, ở Việt Nam vừa ban hành một văn bản pháp luật chuyên biệt quy định chi tiết các vấn đề như: án lệ có giá trị pháp lý; trình tự, thủ tục lựa chọn thông qua và công bố án lệ; nguyên tắc áp dụng án lệ… [19] Trong khi đó, ở hầu hết các nước trên thế giới thì các vấn đề liên quan đến việc hình thành và áp dụng án lệ đều được điều chỉnh bằng các quy tắc tập quán nhằm bảo đảm tính linh hoạt trong việc sử dụng nguồn luật này. Do đó, khó có thể tìm thấy một văn bản pháp luật có tính chuyên biệt quy định các vấn đề này giống như pháp luật Việt Nam. Việc ban hành Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP quy định về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ là một tín hiệu tốt cho quá trình phát triển án lệ ở Việt Nam. Tuy nhiên, chính những quy định này cũng làm cho việc xây dựng án lệ ở Việt Nam theo hướng tập trung vào thủ tục lựa chọn, công bố án lệ hơn là việc nâng cao chất lượng các án lệ được tạo ra. Mặt khác, áp dụng án lệ cũng trở nên cứng nhắc kém linh hoạt. Điều này xuất phát từ lối tư duy pháp lý khá phổ biến ở Việt Nam là những gì được quy định trong các văn bản pháp luật mới được xem là pháp luật.
Thứ ba, thực trạng đổi mới tư duy pháp lý ở Việt Nam vẫn còn chậm hơn so với yêu cầu của thực tiễn xã hội và khuynh hướng chung của thế giới. Nhiều tư duy pháp lý ở Việt Nam vẫn còn rất lạc hậu so với nhiều nước trên thế giới. Thực chất đổi mới của tư duy pháp lý là nhằm giải quyết các vấn đề của thực tiễn đặt ra, nhưng tư duy pháp lý cũ trong nhiều lĩnh vực vẫn không thay đổi trong khi nhu cầu của thực tiễn cần phải đổi mới tư duy pháp lý đã có từ lâu. Chẳng hạn, năm 1992 Việt Nam đã chính thức xây dựng nền kinh tế thị trường nhưng đến năm 2004 mới ban hành Luật Cạnh tranh. Cho đến năm 2005, ở Việt Nam mới đặt ra vấn đề thừa nhận án lệ như là nguồn luật bổ sung cho nguồn văn bản quy phạm pháp luật. Thậm chí, ở thời điểm đó vẫn còn có quan điểm cho rằng Việt Nam không nên thừa nhận án lệ bởi nhiều lý do khác nhau như, lo lắng về trình độ của thẩm phán không đủ tạo ra các án lệ có chất lượng, án lệ vẫn còn là một vấn đề mới, các án lệ có thể không phù hợp với chính sách pháp luật.[20] Trong khi đó, án lệ được thừa nhận và sử dụng một cách phổ biến ở nước theo hệ thống dân luật như, Pháp, Đức cách đây đã hàng trăm năm.
Thứ tư, vẫn còn tình trạng đổi mới tư duy pháp lý nhưng chưa dứt khoát. Đổi mới tư duy pháp lý chính là việc bỏ đi tư duy pháp lý cũ thay thế bằng tư duy pháp lý mới. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn còn rất nhiều trường hợp đã tiếp nhận tư duy pháp lý mới nhưng vẫn giữ lại tư duy pháp lý cũ. Điều này tất yếu dẫn đến hệ quả là thiếu thống nhất và mâu thuẫn về mặt tư duy pháp lý. Thực tế, có nhiều quy định trong các văn bản pháp luật thực định phản ánh tình trạng tư duy pháp lý thiếu thống nhất, nhất quán. Ví dụ như, Luật Doanh nghiệp năm 2014 được ban hành dựa theo tư tưởng chỉ đạo mở rộng quyền tự do kinh doanh tại Điều 33 Hiến pháp năm 2013. Một trong các quy định tiến bộ phù hợp với xu hướng mới này là không bắt buộc các doanh nghiệp phải ghi ngành nghề kinh doanh trong Giấy chứng nhận đăng ký thành lập doanh nghiệp, nhưng trong Điều 24, Điều 32 của Luật này vẫn quy định khai báo và thông báo thay đổi ngành nghề kinh doanh.
3. Một số giải pháp cần thực hiện trong quá trình đổi mới tư duy pháp lý ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, tiếp nhận, bổ sung thêm các học thuyết pháp lý mới trong lĩnh vực lý luận pháp luật phải được đặt lên thành nhiệm vụ hàng đầu. Mặc dù lý luận pháp luật không trực tiếp xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý trong các văn bản pháp luật thực định nhưng nó có vai trò quan trọng trong việc xác định các nguyên tắc pháp lý, phương pháp tiếp cận nhằm giải quyết đúng hướng các vấn đề pháp lý. Do đó, lý luận pháp luật có tác động rất lớn đến hiệu quả điều chỉnh của các văn bản pháp luật. Nếu không dựa trên các học thuyết pháp lý hay triết lý pháp lý trong hoạt động ban hành các văn bản pháp luật và thực hiện pháp luật thì cũng giống như xây nhà không có nền móng, đi biển mà không có la bàn. Các học thuyết pháp lý có phạm vi ảnh hưởng rất lớn, từ việc hình thành quan niệm pháp lý nhất định lan tỏa đến các quy định pháp luật cụ thể, chi phối các hành vi pháp lý nhất định. Theo quy luật chung, các học thuyết pháp lý có quá trình hình thành, phát triển và đấu tranh lẫn nhau cũng như có những bước thăng trầm riêng của mình trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Sự thật chứng minh rằng, không có bất kỳ học thuyết pháp lý nào là duy nhất đúng. Vì vậy, cần thiết phải nắm bắt các học thuyết pháp lý khác nhau và vận dụng chúng một cách hợp lý để giải quyết các vấn đề phát sinh của thực tiễn pháp lý. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được tình trạng cực đoan, phiến diện khi giải quyết các vấn đề pháp lý nhất định. Chẳng hạn, có thể vận dụng lý thuyết kinh tế luật để thiết kế các chế tài phạt tiền trong lĩnh vực pháp luật môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm… cho phù hợp với thực tế nhằm nâng cao hiệu quả của các quy định pháp luật.
Thứ hai, cần phải xây dựng đội ngũ các nhà khoa học pháp lý giữ vai trò tiên phong trong việc đổi mới tư duy lý luận pháp lý nói riêng và tư duy pháp lý nói chung. Để có thể phát triển được về số lượng lẫn chất lượng các công trình nghiên cứu trong lĩnh lý luận pháp luật, đội ngũ các nhà khoa pháp lý có trình độ chuyên môn cao, kiến thức sâu rộng là điều kiện tiên quyết. Thực tế, ở Việt Nam vẫn có rất ít các nhà khoa học pháp lý chuyên về lý luận pháp luật, các công trình khoa học trong lĩnh vực này vẫn còn khá khiêm tốn. Thực tế này, xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan khác nhau. Trước hết, bản thân lý luận pháp luật hay triết học pháp luật là một lĩnh vực phức tạp và khó nghiên cứu. Hai là, rào cản về ngôn ngữ, hầu hết các tài liệu trong lĩnh vực này đều là tiếng Anh nên sẽ khó tiếp cận nếu người nghiên cứu không biết về ngoại ngữ. Ba là, khó bảo vệ quyền tác giả do vấn nạn sao chép trái phép. Để giải quyết thực tế này, có lẽ cần phải có chủ trương, chính sách từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cùng với sự chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo ở cơ sở đào tạo pháp luật, viện nghiên cứu pháp luật. Kể cả từ các kế hoạch, chương trình nghiên cứu cho đến vấn đề tài chính phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu đều hết sức cần thiết và cần được quan tâm hơn nữa.
Thứ ba, cần phải kiểm duyệt chặt chẽ hơn các công trình, sản phẩm khoa học pháp lý được xuất bản. Hiện nay, các công trình, sản phẩm khoa học pháp lý ở Việt Nam được xuất bản còn quá dễ dãi là một thực tế rất đáng buồn. Có lẽ, bệnh thành tích chạy theo số lượng cũng không phải là ngoại lệ trong lĩnh vực khoa học pháp lý ở Việt Nam. Nhiều bài viết, sách về pháp lý vẫn còn có nội dung sơ sài, thiếu chính xác về mặt khoa học. Cùng một tác giả xuất bản rất nhiều sách hoặc công bố nhiều bài viết tạp chí chỉ trong một thời gian ngắn là hiện tượng khá phổ biến trong thời gian qua. Để có thể giải quyết thực trạng này, đương nhiên cần phải có một cơ chế kiểm duyệt chặt chẽ, nghiêm túc hơn đối với các công trình, sản phẩm khoa học pháp lý trước khi xuất bản hoặc công bố. Tuy nhiên, bên cạnh đó, chính các nhà khoa học cũng cần phải có ý thức và trách nhiệm hơn đối các công trình của mình cũng như việc đưa ra ý kiến của mình trên các phương tiện truyền thông. Chỉ cần một sự thiếu chính xác nhỏ về mặt khoa học của một nhà khoa học hoặc người có chức vụ, quyền hạn có thể khiến rất nhiều người hiểu không đúng một vấn đề pháp lý nào đó, dẫn đến hệ lụy là những tư duy pháp lý đúng đắn lại không được chấp nhận dưới cách nhìn hay lối tư duy sai lầm, phản khoa học.
CHÚ THÍCH
[1]* NCS.ThS, giảng viên Khoa Luật Hành chính – Nhà nước, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.Trần Nho Thìn, Tư duy pháp lý – Lý luận và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016, tr. 78
[2] Hoàng Thị Kim Quế, Tư duy pháp lý – Lý luận và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016, tr. 37, 38
[3] Nguyễn Trí Viễn (dịch), Những nguyên lý xây dựng Nhà nước Xô viết và pháp quyền, Nxb. Sách giáo khoa Mác – Lê nin, 1986, tr. 37.
[4] Chu Hồng Thanh, Tư duy pháp lý – Lý luận và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016, tr. 60.
[5] Đào Trí Úc, Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb. Chính trị quốc gia, 1995. Trong tác phẩm này, tác giả đã sử dụng phương pháp luận dựa trên học thuyết xã hội học pháp luật để phân tích các khái niệm, phạm trù, thuộc tính pháp lý. Ví dụ: phân tích tính khách quan của pháp luật, hiệu quả của pháp luật, điều chỉnh pháp luật …
[6] Theo quan điểm của các nhà thực chứng pháp lý xem pháp luật tồn tại dưới hình thức các quy tắc xử sự. Ví dụ: Kelsen, Hart.
[7] Xem: Mai Văn Thắng, “Bàn về trường phái xã hội pháp luật”, maivanthangsl.blogspot.com/2015/06/ban-ve-truong-phai-xa-hoi-hoc-phap-luat.html, truy cập ngày 14/6/2015.
[8] Giải quyết các vấn đề như: cơ chế hình thành, phát triển và phát huy hiệu quả và hiệu lực của pháp luật, nội dung và cơ cấu của pháp luật, bản chất xã hội của pháp luật, mối liên hệ giữa pháp luật và xã hội
[9] Theo hướng tập trung vào xác định các yếu tố xã hội, sự kiện xã hội tác động đến pháp luật, hiệu quả của các quy phạm, chế định pháp luật đối với sự phát triển kinh tế – xã hội
[10] Ví dụ, Đào Trí Úc, “Xã hội học pháp luật – một “mũi giáp công” quan trọng của khoa học pháp lý hiện đại”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9, năm 1997; Đào Trí Úc, “Xã hội học pháp luật thực hiện pháp luật – những khía cạnh nhận thức cơ bản”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2, năm 2005; Võ Khánh Vinh, “Những nội dung nghiên cứu cơ bản của xã hội học pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10, năm 1998; Võ Khánh Vinh, “Lợi ích trong lý luận và xã hội học pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6, năm 2002”; Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật những vấn đề cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, 2015.
[11] Rất ít các công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu giới thiệu về các học thuyết pháp luật tự nhiên, học thuyết pháp luật thực định, thuyết phân tích pháp luật dưới khía cạnh kinh tế. Thường là những bài viết ngắn trong các quyển sách chuyên khảo hoặc giáo trình. Ví dụ, bài viết của Nguyễn Văn Cương: “Quan niệm về pháp luật và hệ thống pháp luật” trong quyển sách: Bàn về hệ thống pháp luật, Nxb. Chính trị quốc gia, 2014 có giới thiệu ngắn gọn về thuyết pháp luật tự nhiện và học thuyết pháp luật thực chứng; Nguyễn Cửu Việt (chủ biên), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, 2003 mục III chương XXIV giới thiệu ngắn gọn các lý thuyết pháp lý; Lê Nết, Kinh tế Luật , Nxb. Tri thức, 2006 có giới thiệu ngắn gọn về học thuyết phân tích pháp luật dưới góc độ kinh tế; Dương Thị Thanh Mai và Nguyễn Văn Cương, Về Trường phái Kinh tế học Pháp luật, Nxb. Chính trị quốc gia, 2012.
[12] Ví dụ, Viện Nhà nước và pháp luật đã đề xuất và chủ trì thực hiện các chương trình và đề tài nghiên cứu cấp nhà nước như: Chương trình KX 04: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (giai đoan 2001 – 2005); KHXH 05 – 05: Đề tài: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng”; KX 04-02: “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam”.
[13] Điuriaghin, I.Ia, Những vấn đề cơ bản về Nhà nước và Pháp luật xã hội chủ nghĩa, Nxb. Sự thật, 1986, tr 157
[14] Ví dụ, luận án tiến sĩ Đỗ Thị Mai Hạnh, Evaluation of the applicability of Common law approaches to precedent in VietNam, 2012; luận án tiến sĩ Nguyễn Văn Nam, Lý luận và thực tiễn về án lệ trong hệ thống pháp luật của các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức và những kiến nghị đối với Việt Nam, 2011.
[15] Ví dụ, luận án tiến sĩ Phan Nhật Thanh, Recognising customary law in VietNam: Legal Pluralism and Human rights, 2011; Tập quán pháp – Thực trạng ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm nâng hiệu quả áp dụng tập quán pháp ở Việt Nam, 2013, báo cáo nghiên cứu của tập thể tác giả: TS. Nguyễn Như Quỳnh, TS. Nguyễn Quốc Việt, ThS. Nguyễn Hoàng Phương.
[16] Rene David, người dịch: TS. Nguyễn Sĩ Dũng, ThS. Nguyễn Đức Lam: Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 2003, tr 157.
[17] Mansep,G.V, (1986), Những vấn đề cơ bản về Nhà nước và Pháp luật xã hội chủ nghĩa, Nxb. Sự thật, tr .179.
[18] Hầu hết các giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật đều thống nhất khái niệm hệ thống pháp luật và dựa theo cách phân chia này.
[19] Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ năm 2015.
[20] Chẳng hạn, bà Lê Thị Thu Ba chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã bác bỏ ý kiến đưa án lệ vào hoạt động xét xử dân sự khi sửa đổi Bộ luật TTDS năm 2010 như sau: “hệ thống pháp luật không ngừng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn nên trong từng giai đoạn cụ thể thì chính sách pháp luật cũng không hoàn toàn giống nhau”. Báo Thanh Niên ngày 21/8/2010,.http://thanhnien.vn/thoi-su/khong-ap-dung-an-le-xet-xu-dan-su-185113.html, truy cập ngày 13/6/2017.
Tác giả: ThS. Đỗ Thanh Trung – Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 06(109)/2017 – 2017, Trang 12-19
Trả lời