Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự thay thế kiểu nhà nước
- Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Lý luận nhà nước và pháp luật
- Vai trò khoa học của Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
- So sánh và Phân biệt nhà nước với các tổ chức xã hội khác
- Quan điểm của Mác -Lênin về nguồn gốc nhà nước
- Kiểu nhà nước là gì? Phân tích khái niệm kiểu nhà nước?
- Phân tích khái niệm và đặc trưng của nhà nước
- Phân tích tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước
- Tính xã hội của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Thế nào là nhà nước “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”
- Chức năng Nhà nước là gì? Phân tích Chức năng của nhà nước?
1 – Kiểu nhà nước là gì?
Kiểu nhà nước là tổng thể những đặc điểm, đặc thù của một nhóm nhà nước, qua đó phân biệt với nhóm nhà nước khác.
2 – Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về kiểu nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì có thể phân chia kiểu nhà nước dựa vào sự phân chia các hình thái kinh tế – xã hội. Mác phân chia lịch sử phát triển của xã hội loài người thành 5 giai đoạn tương ứng với 5 hình thái kinh tế – xã hội là cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Mỗi hình thái kinh tế – xã hội đó có một kiểu quan hệ sản xuất riêng biệt, đặc trưng cho xã hội đó, đồng thời có một cơ sở hạ tầng và một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Trong thượng tầng kiến trúc của xã hội có giai cấp luôn tồn tại nhà nước. Do vậy, tương ứng với một hình thái kinh tế – xã hội có giai cấp là một kiểu nhà nước, đó là các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản và xã hội chủ nghĩa.
Mỗi kiểu nhà nước trên là một loại hay một nhóm nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Như vậy, căn cứ để xác định kiểu nhà nước chính là hình thái kinh tế -xã hội mà nhà nước đã ra đời, tồn tại và phát triển. Đặc điểm của mỗi kiểu nhà nước là do kiểu quan hệ sản xuất đặc thù trong xã hội tương ứng quy định.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, sự thay thế kiểu nhà nước này bằng kiểu nhà nước khác tiến bộ hơn là một quy luật tất yếu, phù hợp với quy luật thay thế các hình thái kinh tế – xã hội. Cụ thể, kiểu nhà nước phong kiến ra đời để thay thế cho kiểu nhà nước chủ nô, kiểu nhà nước tư sản ra đời đế thay thế cho kiểu nhà nước phong kiến và kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời để thay thế cho kiểu nhà nước tư sản. Kiểu nhà nước sau luôn tiến bộ hơn kiểu nhà nước trước vì nó được xây dựng trên cơ sở quan hệ sản xuất phù hợp hơn với trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển cao hơn, cơ sở xã hội của nhà nước rộng rãi hơn; xung đột giai cấp trong xã hội đó thường đỡ gay gắt hơn. Tuy nhiên, đối với mỗi nước cụ thể, do điều kiện lịch sử khách quan, có thể bỏ qua một hoặc một số kiểu nhà nước nhất định (ví dụ: nhà nước ở Việt Nam không có kiểu nhà nước chủ nô và kiểu nhà nước tư bản chủ nghĩa).
Nguyên nhân sâu xa của sự thay thế kiểu nhà nước là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong một phương thức sản xuất xã hội. Khi mâu thuẫn này được giải quyết thì phương thức sản xuất mới được thiết lập, cùng với nó có một kiểu kiến trúc thượng tầng mới và tương ứng là một kiểu nhà nước mới.
Lịch sử cho thấy, có nhiều con đường đưa đến sự thay thế các kiểu nhà nước, có thể thông qua cách mạng xã hội dưới hình thức khởi nghĩa vũ trang, cũng có thể thông qua các cuộc cải cách xã hội một cách toàn diện và triệt đế, trong đó kiểu quan hệ sản xuất cũ dần dần bị thay thế bởi kiểu quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn. Đó chính là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định.
Thực tế, sự phát triển của nhà nước rất đa dạng và phức tạp, do vậy, sự phân chia kiểu nhà nước theo tiêu chí này chỉ có ý nghĩa tương đối bởi vì: Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế – xã hội là cả một quá trình, từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác đều phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ đó sẽ có những nhà nước không thuộc vào kiểu nào trong bốn kiểu nhà nước đã nêu. Đó là những nhà nước hình thành ở thời kỳ mà các giai cấp đang đấu tranh với nhau đã đạt tới một thế cân bằng lực lượng hoặc các lực lượng xã hội khác nhau có thể tạm thời hoà hoãn với nhau vì một mục đích chung nào đó khiến cho chính quyền nhà nước tạm thời có sự độc lập nhất định đối với các giai cấp, các lực lượng xã hội, tựa hồ như một bên trung gian đứng giữa các giai cấp, lực lượng đó. Ví dụ: Chế độ quân chủ chuyên chế ở thế kỷ XVII và XVIII, chế độ Bô-na-pac của Đế chế thứ nhất và thứ hai ở Pháp, chế độ Bi-xmac ở Đức,…
Như vậy, giữa các kiểu nhà nước không thể có ranh giới tách bạch, dứt khoát về mặt thời gian tại một thời điểm nhất định. Ngay trong cùng một kiểu, nhà nước ở thời kỳ đầu của mỗi hình thái kinh tế – xã hội có thể có nhiều điểm khác biệt so với nhà nước ở thời kỳ sau đó.
Trả lời