Mục lục
Chính sách, pháp luật về hội và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện Dự thảo Luật về Hội
Tác giả: ThS. Nguyễn Văn Huệ
TÓM TẮT
Bài viết khái quát sự phát triển của chính sách, pháp luật về hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam, qua đó cho thấy chủ trương, đường lối của Đảng và khung pháp lý về quyền lập hội, về tổ chức và hoạt động của hội từ thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc cho đến nay luôn được tôn trọng và bảo đảm. Bài viết cũng chỉ ra rằng, cùng với sự phát triển chung của xã hội, các tổ chức hội ở nước ta phát triển ngày càng đa dạng với quy mô, phạm vi và tính chất hoạt động khác nhau, dẫn đến các quy định pháp lý hiện hành đã bộc lộ một số điểm bất cập, từ đó phân tích và đề xuất tiếp tục hoàn thiện một số nội dung trong Dự thảo Luật về Hội.
Xem thêm bài viết “Luật về Hội”
- Góp ý về định hướng xây dựng Luật về Hội và một số vấn đề khác – PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm
- Bàn về quyền và nghĩa vụ của hội có đăng ký trong dự thảo Luật về Hội – TS. Lê Minh Hùng
- Địa vị pháp lý của hội trong hoạt động xây dựng pháp luật – TS. Đỗ Minh Khôi
- Quy chế pháp lý về tài chính, tài sản của hội trong Dự thảo Luật về Hội – PGS.TS. Nguyễn Văn Vân
- Bàn về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội theo Dự thảo Luật về Hội – ThS. Nguyễn Tú Anh
Luật về Hội là một trong những đạo luật quan trọng mà Đảng, Nhà nước Việt Nam đã lên kế hoạch xây dựng nhằm cụ thể hóa và thực thi các quyền hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Việc xây dựng Luật về Hội là một bước tiến lớn trong việc hoàn thiện cơ chế pháp lý của nước ta về quyền con người. Mặc dù vậy, vì tự do lập hội là một vấn đề rộng và phức tạp, quá trình xây dựng đạo luật này không tránh khỏi nảy sinh các quan điểm khác nhau về nhiều nội dung. Để giải quyết những khác biệt đó, việc mở rộng nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý, thực tiễn của tự do lập hội là rất cần thiết.
1. Sự phát triển của chính sách, pháp luật về hội
Trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc (1930 ¬- 1945), Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng Cộng sản Đông Dương) đã đề cao các quyền lập hội và hội họp. Nhiều văn kiện do Đảng ban hành trong thời kỳ này đã nêu rõ những đòi hỏi về quyền lập hội, cụ thể như: đấu tranh để “dân chúng được tự do tổ chức” (Chính cương vắn tắt của Đảng năm 1930), “tự do tổ chức, ngôn luận, tụ hội, bãi công, biểu tình, thị oai tuần hành” (nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại hội, Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương năm 1930), kêu gọi quần chúng đấu tranh buộc Chính phủ đế quốc phải “trả lại cho chúng ta quyền tự do bãi công, biểu tình và lập hội” (Thư ngỏ của Ban Chấp hành Trung ương gửi tất cả các đảng phái và các dân tộc ở Đông Dương năm 1936).[1] Bên cạnh đó, Đảng cũng nêu ra những cam kết về bảo đảm “quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền” (Nghị quyết của Quốc dân Đại hội Tân Trào tháng 8 năm 1945 thi hành mười chính sách lớn của Việt Minh sau khi giành chính quyền)…[2]
Quan điểm chính sách kể trên sau đó đã được thể hiện trong bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam. Hiến pháp năm 1946 ghi nhận “quyền tự do tổ chức và hội họp” (Điều 10) của công dân cùng với nhiều quyền dân sự, chính trị khác. Quyền này sau đó tiếp tục được tái khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp tiếp theo (1959, 1980, 1992 và 2013) của Việt Nam.
Để cụ thể hóa quyền này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 52 ngày 22/4/1946 (gồm 15 điều) và Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20/5/1957 về Luật quy định quyền lập hội. Về mặt pháp lý, cho đến nay Luật về Quyền lập hội năm 1957 vẫn có hiệu lực.[3] Trong giai đoạn hiện nay, về mặt chính sách, Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 đã xác định phương hướng: “mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hóa, hữu nghị, từ thiện – nhân đạo”. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng năm 2016 tiếp tục khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.[4]
Chúng ta có thể thấy chủ trương, sách lược của Đảng ta rất rõ ràng về tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, về phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước.
Về mặt pháp luật, khung pháp lý hiện hành về quyền lập hội của Việt Nam bao gồm nhiều văn bản luật điều chỉnh các vấn đề khác nhau, trong đó có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp năm 2013. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định: “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 lại quy định: “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của Luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Tuy nhiên, trừ sáu tổ chức chính trị – xã hội và các tổ chức hội nghề nghiệp của luật sư, công chứng viên thì các quy định pháp luật liên quan đến quyền lập hội của công dân nêu trên hiện nay chủ yếu được điều chỉnh bằng văn bản dưới luật như Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Nghị định này được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/4/2012 của Chính phủ.
Xét tổng thể, Việt Nam đã có một khung pháp lý tương đối đồng bộ để điều chỉnh các vấn đề về tổ chức và hoạt động của các hội. Khung pháp lý hiện hành đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều dạng hội và cho phép các hội ở Việt Nam chủ động thực hiện và tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau tùy thuộc vào các loại hình tổ chức khác nhau. Đây là những tiền đề quan trọng cho sự phát triển của các hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, khung pháp lý hiện hành về vấn đề này của Việt Nam cũng còn một số điểm bất cập, cụ thể như sau:
– Về cấu trúc, hệ thống pháp luật về hội và tự do hiệp hội khá phức tạp, với nhiều loại hình văn bản, trong khi nhiều vấn đề vẫn chưa được quy định rõ ràng, phù hợp, chẳng hạn như về các tổ chức không có hội viên và các tổ chức tại cộng đồng; quy định về đầu mối quản lý thống nhất các hội; cơ chế đánh giá, giám sát trách nhiệm giải trình và tính công khai, minh bạch của các hội; chính sách khuyến khích và ưu đãi dành cho các hội hoạt động phi lợi nhuận, vì lợi ích công cộng…
– Về chủ thể và nội dung của quyền, có ý kiến cho rằng, việc giới hạn chủ thể quyền chỉ là công dân trong Điều 25 Hiến pháp năm 2013 hẹp hơn so với pháp luật quốc tế và xu hướng trên thế giới. Trong khi đó, về nội dung, khái niệm “quyền lập hội” được dùng trong Điều 25 Hiến pháp năm 2013 (và các hiến pháp trước đây của Việt Nam) hẹp hơn khái niệm “quyền tự do hiệp hội” theo luật nhân quyền quốc tế. Những bất cập này hiện đang gây khó khăn cho việc xây dựng luật về hội và việc thực hiện pháp luật về hội, vì thực tế trong bối cảnh toàn cầu hóa, không thể loại trừ hàng triệu người nước ngoài đang sinh sống, làm việc hợp pháp ở Việt Nam tham gia các hội của họ hoặc của Việt Nam.
– Về các điều kiện thành lập hội, với những quy định hẹp và cứng nhắc nêu trong Nghị định số 45/2010/NĐ-CP (và trong chế định về pháp nhân của Bộ luật Dân sự năm 2015), nhiều dạng hội khó hoặc không thể thành lập đúng pháp luật. Thực tế trong những năm vừa qua, có nhiều nhóm, câu lạc bộ, mạng lưới, diễn đàn, hội đoàn… đã hình thành và hoạt động sôi nổi trên cả nước, song do thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng nên không thể làm các thủ tục thành lập, vì thế rơi vào tình trạng bị coi là bất hợp pháp hoặc “chưa được nhà nước thừa nhận”. Đây là vấn đề mà có một số quan điểm cho rằng đi ngược với xu hướng tất yếu của xã hội hiện đại mà trong đó không thể thiếu và không thể cấm hoạt động của các hội đoàn, nhóm, mạng lưới, diễn đàn…
Tham khảo một số nghiên cứu độc lập, có thể đánh giá rằng, các quy định pháp luật về thành lập hội trong Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, Bộ luật Dân sự năm 2015 và các văn bản pháp luật liên quan vẫn thiên về tạo thuận lợi cho cơ quan hành chính, coi nhẹ sự tự do ý chí trong việc thành lập và tham gia các hội đoàn của người dân. Nói cách khác, cách tiếp cận của nhà nước với quyền tự do lập hội vẫn theo hướng “ban phát”, “quản lý” chứ chưa tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo như quy định của Hiến pháp năm 2013.[5]
– Về việc gây quỹ và tổ chức các hoạt động của hội, hiện có nhiều quy định khác nhau với các loại tổ chức và hoạt động khác nhau, nhiều quan điểm cho rằng các quy định đó còn mang tính chất phiền hà, phức tạp và khắt khe.
2. Một số vần đề cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện trong Dự thảo Luật về Hội
Hiện nay, các tổ chức hội ở nước ta phát triển đa dạng với quy mô, phạm vi và tính chất hoạt động khác nhau. Về số lượng, tính đến tháng 12/2014 cả nước có 52.565 hội (483 hội hoạt động phạm vi cả nước và 52.082 hội hoạt động phạm vi địa phương), trong đó có 8.792 hội có tính chất đặc thù (28 hội hoạt động phạm vi cả nước và 8.764 hội hoạt động phạm vi địa phương).[1]
Trong tương lai, nhu cầu lập hội ngày càng nhiều và đa dạng bởi lẽ: (i) Đảng ta khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng cần phải tổ chức, tập hợp, giáo dục, hướng dẫn và xây dựng các phong trào cách mạng của quần chúng. Đảng cần phải nắm lấy, lãnh đạo các tổ chức ấy phục vụ cho đường lối chính trị của mình, huy động mọi tiềm năng, sức mạnh của nhân dân vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng khuyến khích các hội phát triển theo nguyên tắc tự chủ, tự lực, tự trang trải trong khuôn khổ pháp luật. Đảng tăng cường và giữ vững vai trò lãnh đạo của mình với các hội; (ii) Mục tiêu phát triển của đất nước là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tất cả những điều ấy kích thích, khơi dậy tính tự giác, tích cực xã hội của mỗi con người và do đó các hội có điều kiện để phát triển. Xã hội càng phát triển, trình độ dân trí càng được nâng cao, người dân càng ngày càng được hưởng nhiều quyền lợi hơn, đặc biệt là quyền dân chủ, nhất là dân chủ trực tiếp. Dân chủ cho người dân được đảm bảo bằng pháp luật và những điều kiện hết sức rõ ràng, cho nên khơi gợi, khuyến khích người dân mạnh dạn hơn, ý thức hơn các công việc của mình, thúc đẩy họ tích cực tham gia vào công việc xã hội theo sức của mình; (iii) Ở góc độ xây dựng và phát triển xã hội, quản lý xã hội, càng đi vào chiều sâu và mở rộng các lĩnh vực quản lý, nhà nước ta càng cần sự tham gia, đóng góp kinh nghiệm, nguồn tài chính và năng lực quản lý. Do đó, Nhà nước sẽ khuyến khích mọi sáng kiến của công dân và mọi tổ chức của công dân tham gia vào quá trình này; (iv) Sự hội nhập nhanh chóng và mạnh mẽ của Việt Nam với khu vực và toàn thế giới, trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học, giáo dục, hữu nghị, từ thiện, nhân đạo… khiến cho các tổ chức phi chính phủ của nước ngoài và quốc tế có nhiều con đường vào Việt Nam, đây cũng là một trong những nhân tố thúc đẩy các hội phát triển; (v) Đảng và nhà nước tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển các tổ chức nhân dân thông qua việc ban hành các nghị quyết và hệ thống văn bản pháp Luật về Hội…[2]
Với thực tiễn đa dạng về tổ chức hội ở nước ta như vậy, chúng tôi cho rằng dự thảo luật cần đáp ứng các yêu cầu sau:
– Thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, đường lối và quan điểm của Đảng về phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời, Nhà nước cần tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, tham gia rộng rãi vào những vấn đề của đất nước thông qua các tổ chức tự nguyện (hội) của mình. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với các hội quần chúng, trong đó đặc biệt là các hội có Đảng đoàn.
– Đảm bảo tính phù hợp của Dự thảo Luật về Hội so với Hiến pháp năm 2013 và các luật có liên quan, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
– Đảm bảo phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam, phản ánh đúng các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam hiện nay và phải tính đến các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành của luật.
– Đảm bảo tính kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật về hội qua các thời kỳ, đồng thời nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới về xây dựng và thực hiện pháp luật về hội.
– Nhà nước tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền lập hội của công dân theo Hiến pháp và pháp luật, tạo điều kiện để hội hoạt động có hiệu quả, góp phần phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Cụ thể là:
2.1. Về phạm vi điều chỉnh
Đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động tại Việt Nam: theo thống kê có khoảng 600 tổ chức phi chính phủ nước ngoài đã vào hoạt động tại Việt Nam. Do đó, theo quan điểm của Ban soạn thảo và Ủy ban pháp luật của Quốc hội thì hội cũng là một loại hình của tổ chức phi chính phủ, nếu vậy tên gọi là Luật về Hội có thể bao hàm được các tổ chức phi chính phủ hay không?[3] Về vấn đề này, Chính phủ đã có quy định trong Nghị định số 12/2012/NĐ-CP ngày 01/3/2012 về đăng ký quản lý tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Do đó, luật chỉ nên quy định mang tính nguyên tắc về vấn đề tổ chức phi chính phủ nước ngoài vào Việt Nam và giao cho Chính phủ hướng dẫn.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, nên cân nhắc không nên đưa nội dung về vấn đề đăng ký và quản lý hoạt động của tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam vào luật này bởi tên gọi của luật là Luật về Hội. Do đó, nếu đưa nội dung này vào sẽ không phù hợp với tính chất của luật. Hơn nữa, các quy định cụ thể về nội dung này tại Chương V cũng chỉ mang tính nguyên tắc và đều giao Chính phủ xây dựng nghị định quy định chi tiết. Trong khi đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2012/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam để điều chỉnh.
2.2. Về đối tượng áp dụng
Để đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ trong hệ thống pháp luật, chúng tôi cho rằng luật không nên được áp dụng đối với 06 tổ chức đoàn thể bao gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Đối với các tổ chức hội không đăng ký, thực tiễn hiện nay rất nhiều tổ chức không có tư cách pháp nhân đã được thành lập trên địa bàn cả nước ta. Theo số liệu của một số nghiên cứu khảo sát gần đây có khoảng trên 200.000 tổ chức này, thường gọi là tổ chức cộng đồng. Các tổ chức này hoạt động có hiệu quả, không vi phạm pháp luật và chính quyền cũng không ngăn cấm. Do đó Luật về Hội cần hướng tổ chức này hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân tương ái, đồng thời nêu rõ các lĩnh vực mà các tổ chức không được phép thành lập và hoạt động như các hội phản quốc, chia rẽ dân tộc, phát xít, tôn giáo, cực đoan…
Tuy nhiên, có một số ý kiến đề nghị kế thừa Điều 3 Sắc lệnh 102/SL-L004 ngày 20/5/1957 về quyền lập hội đã quy định: “Để bảo đảm việc lập hội có mục đích chính đáng, bảo vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân, lập hội phải xin phép. Thể lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định”. Điều 5 của Luật này cũng quy định: “Hội thành lập hợp pháp phải hoạt động theo đúng Điều lệ của Hội và theo đúng các luật lệ hiện hành…”. Do đó, để công tác quản lý nhà nước đối với các tổ chức Hội được thực hiện tốt và đảm bảo tính hợp pháp của tổ chức hội, cần nghiên cứu, cân nhắc có nên đưa các tổ chức hội không đăng ký vào phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật này hay không?
2.3. Về chế độ chính sách đối với hội
Trong thời gian qua, các tổ chức hội (đặc biệt là các tổ chức hội có Đảng đoàn) đã phát huy vai trò tích cực và có những đóng góp to lớn vào việc tập hợp, đoàn kết giới trí thức và các tầng lớp nhân dân. Các hội cũng tham gia tích cực vào công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và xây dựng chính sách, pháp luật, tham gia tích cực thực hiện nhiệm vụ đối ngoại nhân dân, nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ, tham mưu đề xuất, tư vấn, phản biện và giám định xã hội nhiều vấn đề lớn, quan trọng của đất nước, thông qua đó, góp phần vào sự ổn định và phát triển chính trị – kinh tế – xã hội của đất nước.
Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm lãnh đạo, quản lý và tạo điều kiện để phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức hội điển hình như: Nghị quyết số 08B/NQ-HNTW ngày 27/3/1990 của Hội nghị Trung ương khóa 8 về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân; Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 06/10/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hội quần chúng; Chỉ thị số 17-CT/TW ngày 28/8/2012 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các hội quần chúng; Kết luận số 102-KL/TW ngày 22/9/2014 và gần đây nhất Công văn số 226-CV/TW ngày 10/8/2015 của Bộ Chính trị về hội quần chúng.[4]
Do vậy, chúng tôi cho rằng Ban soạn thảo cần quán triệt và thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các tổ chức hội quần chúng, nhất là các tổ chức hội được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều lệ như quy định tại Điều 18 trong Dự thảo Luật về Hội. Trong đó, đề nghị Dự thảo Luật về Hội tiếp tục kế thừa quan điểm của Chính phủ đã nêu tại Tờ trình số 578/TTr-CP ngày 27/10/2015 và được thể hiện tại Điều 5 Dự thảo Luật về Hội đã trình tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII.
“Điều 5. Chính sách đối với hội và người làm việc tại hội
1. Chính sách của Nhà nước đối với hội
a) Ban hành cơ chế, chính sách để hội tham gia xã hội hóa các hoạt động cung cấp dịch vụ, tư vấn; thực hiện chương trình, dự án, đề tài và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
b) Đối với các hội thành lập do nhu cầu của Đảng và Nhà nước, được ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động. Đối với các hội còn lại tự trang trải kinh phí hoạt động và được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí gắn với nhiệm vụ Nhà nước giao.
2. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài trợ cho hội.
3. Người làm việc tại hội được thực hiện chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật và theo điều lệ hội.
4. Chính phủ quy định chi tiết thi hành điểm b khoản 1 và khoản 3 Điều này”.
Quy định như vậy sẽ đảm bảo Luật về Hội vừa đảm bao được các yêu cầu chung, vừa đáp ứng sự phù hợp trong đa dạng của các tổ chức hội.
2.4. Về điều lệ hội
Về cơ bản, chúng tôi nhất trí với các quy định trong Dự thảo Luật về Hội. Tuy nhiên, riêng đối với các tổ chức Hội được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều lệ theo quy định tại điều luật này thì Điều lệ của các hội đó cần được áp dụng thống nhất trong toàn quốc, các cấp hội địa phương không cần phải có điều lệ riêng. Điều này cũng phù hợp với Kết luận 102/KL-TW ngày 22/9/2014 của Bộ Chính trị về Hội quần chúng. Do vậy, quan điểm trên cũng cần phải bổ sung vào khoản 5 Điều 13 Dự thảo Luật về Hội..
CHÚ THÍCH
[1]* ThS. Luật học, Trưởng Ban Nghiên cứu, xây dựng và phổ biến pháp luật Hội Luật gia Việt Nam.Lã Khánh Tùng, Nghiêm Hoa, Vũ Công Giao, Hội và tự do hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa trên quyền (truy cập http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1110&TabIndex=3&TaiLieuID=1984 ngày 2/11/2016).
[2] Lã Khánh Tùng, Nghiêm Hoa, Vũ Công Giao, Hội và tự do hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa trên quyền (truy cập http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1110&TabIndex=3&TaiLieuID=1984 ngày 2/11/2016).
[3] Đạo luật này gồm 12 điều, ngoài việc tái khẳng định sự tôn trọng và bảo đảm quyền lập hội của nhân dân còn bao gồm một số quy định nhằm bảo đảm thực hiện quyền, trong đó khẳng định chủ thể của quyền lập hội là mọi công dân, trừ những người mất quyền công dân hoặc đang bị truy tố trước pháp luật; quyền tự do vào và ra hội; các biện pháp bảo vệ quyền; việc lập hội phải xin phép.
[4] Trích Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các Văn kiện Đại hội XII của Đảng do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày ngày 21/01/2016.
[5] Vũ Công Giao (chủ biên), Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp năm 2013 – lý luận và thực tiễn, Nxb. Hồng Đức, 2016, tr. 25.
[6] Tờ trình Quốc hội số 578/TTr-CP ngày 27/10/2015 của Chính phủ về dự án Luật về hội, tr. 1 – 2.
[7] Vũ Công Giao (chủ biên), Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp năm 2013 – lý luận và thực tiễn, Nxb. Hồng Đức, 2016, tr. 80.
[8] Tờ trình Quốc hội số 578/TTr-CP ngày 27/10/2015 của Chính phủ về dự án Luật về hội và Báo cáo thẩm tra số 3436/BC-UBPL13 ngày 26/11/2015 của Ủy ban pháp luật về dự án Luật về hội
[9] Tờ trình Quốc hội số 578/TTr-CP ngày 27/10/2015 của Chính phủ về dự án Luật về hội, tr. 4.
- Tác giả: ThS. Nguyễn Văn Huệ
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02(105)/2017 – 2017, Trang 8-13
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời