Mục lục
Việc sử dụng quyết định của Tòa án trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy tại Cộng hòa Pháp: Trước số lượng lớn những quyết định của Tòa án, học thuyết cần phải tự điều chỉnh để nắm bắt được nội dung của các phán quyết này và để làm tròn sứ mệnh của mình: bình luận, phê bình, truyền đạt án lệ được hình thành, và từ đó, tham gia vào việc xây dựng nên án lệ…
- Kinh nghiệm về sử dụng bản án, quyết định của Tòa án trong đào tạo nghề luật – PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng
- Sử dụng bản án của Tòa án trong giảng dạy thảo luận – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
- Tổng quan phương pháp giảng dạy qua án trong chuyên ngành luật từ các nước trong hệ thống thông luật và dân luật – TS. Phan Nhật Thanh
- Thực trạng và ý nghĩa của việc sử dụng bản án trong công tác đào tạo luật ở Việt Nam – TS. Bùi Xuân Hải
- Sử dụng bản án trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Luật TP. HCM – những vấn đề nhìn từ góc độ đảm bảo chất lượng – ThS. Vũ Duy Cương – ThS. Phạm Đình Phú
- Sử dụng bản án trong giảng dạy: Góc nhìn từ người làm thực tiễn – LS. Trương Nhật Quang
- Sử dụng bản án để xây dựng tình huống trong đào tạo luật – PGS.TS. Phan Huy Hồng
- Bàn về việc sử dụng bản án làm chất liệu thiết kế bài giảng môn học chuyên ngành luật – TS. Phan Thị Thành Dương
- Sơ lược về sử dụng bản án trong công tác nghiên cứu khoa học – PGS.TS. Trần Thị Thùy Dương
- Sử dụng bản án trong giảng dạy pháp luật phần lý thuyết – kinh nghiệm qua một trường hợp ở Anh – TS. Đỗ Thị Mai Hạnh
TÓM TẮT
Trong một khoảng thời gian dài, các tác giả của các học thuyết vốn thù địch với án lệ đã không thể bỏ qua án lệ, vốn phản ánh thực tế, và từ lâu đã không còn chỉ nghiên cứu Bộ luật Napoléon mà chuyển sang tìm hiểu toàn bộ pháp luật dân sự. Trước số lượng lớn những quyết định của Tòa án, học thuyết cần phải tự điều chỉnh để nắm bắt được nội dung của các phán quyết này và để làm tròn sứ mệnh của mình: bình luận, phê bình, truyền đạt án lệ được hình thành, và từ đó, tham gia vào việc xây dựng nên án lệ.
TỪ KHÓA: Quyết định của Tòa án, Tòa án, Pháp luật Pháp,
“Án lệ và học thuyết”, “Học thuyết và án lệ” đó là tựa đề của hai bài báo trong tạp chí Revue trimestrielle de droit civil, ra đời năm 1902 và dành riêng cho việc nghiên cứu, cập nhật luật dân sự. Như Philippe Jestaz và Christophe Jamin, tác giả của bài báo thứ hai được viết năm 2002 nhận định, “tựa đề (của bài báo thứ nhất, do Esmein – một trong những thành viên sáng lập của tạp chí viết năm 1902) được in bằng chữ in hoa, nhưng vị trí đặt ở phía sau của học thuyết được nhấn mạnh bởi việc dùng chữ in hoa nhỏ và mảnh hơn một chút xíu, và đây không phải là một sự tình cờ”.
Mối quan hệ, hay đúng hơn là các mối quan hệ giữa học thuyết và án lệ dường như vẫn đang tiến triển không ngừng. Đây là một tính chất quan trọng của luật dân sự Pháp, dù có bị bó buộc bởi các quy định trong Bộ luật Dân sự nhưng vẫn luôn đầy sức sống – đặc biệt là vào thế kỷ XX, thế kỷ chứng kiến những cuộc tranh luận sôi nổi trong học thuyết về nguồn gốc và chất lượng của án lệ.
Dù vậy, chủ đề của nghiên cứu này liên quan đến “Việc sử dụng quyết định của tòa án trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy tại Cộng hòa Pháp”, điều này rõ ràng là gần với chủ đề về các quan hệ giữa án lệ và học thuyết, dù không trùng lặp.
Thật ra, học thuyết đưa ra nhiều nghĩa khác nhau cho từ “jurisprudence”, như:
– Tập hợp các quyết định của tòa án, “một khối lượng không đếm được những tranh chấp thường được trình bày như không đem lại lợi ích gì cho lý thuyết và ngoài ra còn không có tầm quan trọng về học thuyết” (Án lệ khổng lồ, Marie-Anne Frison-Roche, RTD civ 1993), được Gérard Cornu định nghĩa như “tập hợp các quyết định của tòa án được đưa ra trong một giai đoạn cụ thể hoặc trong một lĩnh vực hoặc trong một ngành luật”;
– Các quyết định của tòa án có giá trị án lệ, là các “phán quyết được đưa ra bởi những cơ quan xét xử cao nhất và các quyết định mà việc nghiên cứu nó được thực hiện do bởi tính độc đáo của câu hỏi pháp lý được đề cập, bởi tính chất quan trọng, bởi sự không chắc chắn của câu trả lời được đem lại hay bởi tính đặc biệt của vụ việc được xem xét” (Marie-Anne Frison-Roche) và được giáo sư Cornu giới thiệu như “tập hợp các giải pháp được đem lại bởi các quyết định của tòa khi áp dụng luật (đặc biệt trong quá trình giải thích luật khi luật không rõ ràng) hoặc khi sáng tạo luật (khi cần bổ sung luật trong trường hợp thiếu luật)”.
Tương tự, học thuyết được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Từ điển Petit Robert định nghĩa học thuyết là “tập hợp các nghiên cứu pháp lý nhằm trình bày hoặc giải thích luật (khác với luật và án lệ)”. Giáo sư Cornu đề nghị 4 định nghĩa: “1. Quan điểm cùng được bày tỏ bởi những người dạy luật, hoặc ngay cả những người tuy không dạy nhưng viết về luật. 2. Tập hợp các sách luật. 3. Tập hợp các tác giả viết sách luật. 4. Quan điểm được thể hiện về một câu hỏi pháp lý cụ thể”.
Trong một nghiên cứu mới đây (thể hiện tại một bài báo ra đời năm 1997, và sau đó trong một cuốn sách ra đời năm 2004), Philippe Jestaz và Christophe Jasmin coi học thuyết là “một tập hợp đồng nhất và gắn kết”, “một nhóm không chính thức nhưng đồng nhất gồm các tác giả và tác phẩm” tạo nên một “thực thể học thuyết Pháp” có “dấu hiệu kết tụ mạnh mẽ”. Các tác giả khác nhấn mạnh rằng “không có học thuyết được phép, cũng không có học thuyết chính thức”, khẳng định rằng “không có chiếu trên, cũng không có chiếu dưới trong môi trường đại học” (Laurent Aynès, Pierre-Yves Gautier, François Terré).
Hơn nữa, cần ghi nhận rằng các học thuyết chính luận và không chính luận không lẫn lộn và cũng không tương hợp. Thật ra, ngoài những khác biệt liên quan đến lĩnh vực, nếu học thuyết không chính luận được đưa ra bởi các giáo sư đại học, người nghiên cứu/ giảng dạy được hưởng một sự độc lập thật sự đối với các quyết định được đưa ra (và đôi khi, được đưa ra những quan điểm chỉ trích sắc nhọn đối với các quyết định đó), học thuyết chính luận từ lâu đã được xây dựng bởi những tác giả trực tiếp của các bản án hành chính (trước tiên là các nhân vật trong Hội đồng Nhà nước), đến mức đôi khi sự độc lập của họ đối với án lệ bị nghi ngờ – mặc dù người ta không phủ nhận ảnh hưởng quyết định của các tác giả lớn, như Léon Duguit và học thuyết dịch vụ công, Maurice Hauriou và học thuyết về quyền năng công…
Trong khuôn khổ nghiên cứu này, chúng tôi cho rằng học thuyết chỉ được xây dựng bởi các giáo sư và nhà nghiên cứu luật. Theo nghĩa này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ phù hợp với nguồn gốc của từ (trong tiếng latin doctrina quả thật có nghĩa là hành vi giảng dạy).
100 năm chia cách 2 bài báo của tạp chí liên quan đến quan hệ giữa “án lệ và học thuyết” và “học thuyết và án lệ”: cái “nơi gặp gỡ của cuộc tranh luận thế kỷ” (Daniel Tricot) này đã vượt qua ngưỡng thế kỷ XX, thế kỷ trong đó người ta thấy các sinh viên đã ngừng tham gia vào các môn học về Bộ luật Napoléon để tập trung vào việc học môn Luật Dân sự. Đây liệu là một sự điều chỉnh nhỏ về thuật ngữ, hay là một thắng lợi thực sự của án lệ trong hoạt động giảng dạy?
Nếu một số tác giả tiếp tục cho rằng án lệ chỉ là một nguồn tham khảo có uy tín chứ không phải là một nguồn của luật, như Hiệu trưởng Carbonnier, phù hợp với truyền thống Pháp, nghi ngờ vai trò của án lệ người ta vẫn thấy rằng, dù là nguồn tham khảo có uy tín hay nguồn luật, án lệ vẫn chiếm vị trí quan trọng và người học luật không thể, cũng không được bỏ qua nó: việc sử dụng án lệ là điều không thể thiếu (I). Tuy vậy, học thuyết không thể chỉ đơn giản tiếp nhận án lệ và trình bày những án lệ và quyết định hành chính: người ta cần bình luận án lệ (II).
I. Tiếp nhận án lệ
Dù cho trật tự pháp lý truyền thống của Pháp tỏ ra chống đối đối với các thẩm phán kể từ sau Cách mạng Pháp, học thuyết tập trung vào việc nghiên cứu án lệ do bởi tầm quan trọng của án lệ trong trật tự pháp lý, bởi luật và án lệ bổ sung cho nhau (A), điều này kéo theo việc hình thành học thuyết (B).
A. Lý do: sự bổ sung lẫn nhau giữa luật và án lệ
Trên nguyên tắc, hệ thống pháp luật của Pháp chỉ dành cho thẩm phán một vai trò hạn chế sau Cách mạng Pháp; người ta từ đó có thể nghĩ rằng việc nghiên cứu án lệ là điều không cần thiết (1). Trên thực tế, việc nghiên cứu luật và án lệ là điều không thể bỏ qua trong học thuyết: luật và án lệ bổ sung lẫn nhau (2).
1. Nguyên tắc: án lệ – sự áp dụng luật cứng nhắc
Hệ thống pháp luật của Pháp, vốn là hệ thống luật thành văn, dựa trên một trật tự các quy tắc, thể hiện bởi một kim tự tháp mà ở đỉnh là hiến pháp, tiếp đó là các luật do Quốc hội thông qua, là sự thể hiện của ý chí chung, và án lệ là kết quả của việc áp dụng luật để giải quyết những vấn đề mà công dân đặt ra. Cũng cần nêu rõ rằng cấu trúc này cũng có những điểm uyển chuyển, bởi án lệ về hiến pháp có giá trị cao hơn luật.
Kể từ Cách mạng Pháp, người ta tỏ ra nghi ngờ đối với các thẩm phán, đây là một cách phản ứng trước quyền lực của các đại biểu nghị viện chế độ cũ, và do đó dẫn đến việc hạn chế quyền lực của các thẩm phán này. Điều đó được minh họa trong kim tự tháp bởi quy tắc cơ quan lập pháp xét xử, theo đó các tòa án phải hỏi ý kiến của cơ quan lập pháp mỗi khi luật cần được giải thích.
Hiến pháp của Cộng hòa thứ V vẫn trung thành với mô hình này và công nhận quyền lực hành pháp và lập pháp cũng như uy quyền của cơ quan tư pháp. Tương tự, Bộ luật Dân sự hiện tại cấm các phán quyết đưa ra quy tắc (Điều 5) và công nhận tính thuyết phục tương đối của các vấn đề pháp lý đã giải quyết (Điều 1351), bên cạnh đó không có quy tắc tương tự với quy tắc trong thông luật về việc tôn trọng án lệ. “Nói cách khác, (theo luật dân sự Pháp), về pháp lý mọi yếu tố đều cản trở việc công nhận vai trò của các phán quyết của tòa án, không tính đấn số lượng phong phú cũng như uy quyền chính thức của cơ quan xét xử.” (Philippe Jestaz và Christophe Jamin).
Tuy vậy, từ 1828, quy tắc cơ quan lập pháp xét xử đã bị xóa bỏ để cho phép án lệ thoát ra khỏi vai trò truyền thống là “cơ quan phát ngôn của luật” (Montesquieu) và trở thành sự phản chiếu của hiện thực.
2. Thực tiễn: án lệ – sự phản chiếu của hiện thực
Mặc dù trật tự pháp lý khá thù địch đối với án lệ, án lệ đã đạt được vị trí quan trọng: từ 1902, án lệ được coi là “sự thể hiện thật sự của luật dân sự, là luật thực tế và thực định, khi mà nó chưa bị thay đổi” (Esmein).
Quả thật, luật thành văn phải đối mặt với hai thách thức: sự lỗi thời và sự tan vỡ. Vào đầu thế kỷ XX, luật thành văn dường như bị lỗi thời bởi Bộ luật Dân sự chưa được thay đổi một cách thật sự từ khi ra đời năm 1804, trong khi xã hội Pháp phải đối mặt với những vấn đề mới, liên quan chủ yếu tới Cách mạng công nghiệp. Vào đầu thế kỷ XXI, ngược lại, Bộ luật Dân sự và nhiều Bộ luật khác (sở hữu trí tuệ, lao động…) được coi là đem lại lời giải đáp cho những vấn đề của xã hội Pháp, nhưng những giải đáp này khá phức tạp và nằm rải rác khắp nơi.
Tuy nhiên, như Portalis, người chấp bút viết Bộ luật Napoléon, đã tuyên bố, “vai trò của luật là đưa ra các giải pháp vĩ mô, các “châm ngôn” chung của luật, đưa ra những nguyên tắc với nhiều hệ quả, chứ không phải để giải quyết những tiểu tiết của các vấn đề có thể nảy sinh trong từng lĩnh vực. Thẩm phán, người nắm vững tinh thần chung của luật, có nghĩa vụ theo dõi việc áp dụng (…). Chúng ta trao cho án lệ những trường hợp không thể được giải quyết bởi đạo luật phù hợp, những chi tiết quá đa dạng và gây nhiều tranh cãi vốn không nên làm bận lòng nhà làm luật.”. Như vậy, luật và án lệ bổ sung lẫn nhau. Bổ sung nhau, khi luật tồn tại mà tối nghĩa, cũng như bổ sung nhau khi luật không tồn tại.
Do đó, học thuyết không nên bỏ qua án lệ: tuy nhiên còn cần tìm hiểu phải sử dụng án lệ này, vốn cũng đa dạng như những câu hỏi mà nó cần trả lời, ra sao (B).
B. Phương pháp
Theo Bộ Tư pháp, trong năm 2013, có đến gần 2.700.000 quyết định của cơ quan xét xử được đưa ra trong lĩnh vực dân sự và thương mại và 220.000 trong lĩnh vực hành chính. Bên cạnh số lượng khổng lồ này, người ta có thể tự hỏi làm sao người nghiên cứu/ giảng dạy có thể xử lý khối lượng quyết định ấy. Điều này có thể đạt được, bởi các phán quyết được giải thích, theo luật và/ hoặc theo sự kiện, và được xếp thang bậc bởi các tòa án (1). Tuy nhiên, điều này không tránh khỏi gây ra những sai lầm khi người nghiên cứu/ giảng dạy xem xét. (2).
1. Các công cụ có sẵn: các phán quyết được giải thích, xếp theo thang bậc và xuất bản
Từ ngày 16 – 24 tháng 8 năm 1970, các thẩm phán bắt buộc phải đưa ra luận điểm giải thích các phán quyết của mình, nếu không phán quyết không có giá trị. Nghĩa vụ này được áp đặt đối với tất cả mọi cơ quan xét xử.
Ở mỗi cấp bậc cơ quan xét xử có một phương pháp viết phán quyết riêng (mỗi trật tự có một loại thuật ngữ pháp lý khác nhau). Về vấn đề này, ta có thể ghi nhận rằng Hội đồng Nhà nước cấp cho mỗi thẩm phán một hướng dẫn cách thảo phán quyết để có thể trình bày phù hợp với cấp bậc xét xử nhằm hài hòa hóa án lệ.
Hơn nữa, Hội đồng Thẩm phán tối cao tự quyết định về vai trò của phán quyết của họ. Một chữ cái, được ghi nhận trên bản chính của phán quyết, ghi rõ giá trị của phán quyết. Đối với Tòa phá án, các phán quyết có tầm quan trọng lớn hơn, được phân tích trong báo cáo thường niên của Tòa phá án, mang chữ cái “R”; các phán quyết loại “F” được công bố trên trang website của Tòa và nhận được sự quan tâm rộng rãi của công chúng bởi chúng liên quan đến câu hỏi được đặt ra bởi xã hội hoặc cuộc sống thường ngày; các phán quyết “P” được công bố trên Bản tin của Tòa phá án bởi chúng đem lại một giải pháp mới, thể hiện một sự phát triển hoặc khẳng định một quan điểm đã tồn tại trước kia; các phán quyết “B”, được xuất bản tại Bản thông tin của Tòa phá án và được các thẩm phán giải quyết nội dung vụ việc quan tâm; và cuối cùng các phán quyết “D” là phán quyết đặc biệt.
Người nghiên cứu/ giảng dạy không thể bỏ qua trật tự trên và bên cạnh các phát quyết, họ phải xem xét cả các bản tin, báo cáo và phân tích của Hội đồng Thẩm phán tối cao giúp trước hết làm rõ ý nghĩa của án lệ mà thỉnh thoảng không rõ ràng.
Sự tồn tại của các trang web có trả phí hay không đem lại một khả năng tiếp cận trực tiếp các phán quyết và ý kiến của Hội đồng Thẩm phán tối cao, trong đó trang web hàng đầu là Légifrance, tạo điều kiện cho việc tiếp cận dễ dàng án lệ.
Luật pháp có ngôn ngữ và phương pháp riêng, việc nắm vững chúng là nghĩa vụ của những người hành nghề, thẩm phán và luật sư và cả những người nghiên cứu/ giảng dạy để có thể hiểu rõ ràng những giải pháp do cơ quan xét xử mang lại và tránh những sai lầm trong giải thích (2).
2. Sử dụng đúng các công cụ
Ở một trong những bài báo của ông (“Giải thích một phán quyết của Tòa phá án”, Recueil Dalloz 2004, tr. 2239), Jacques Ghestin ghi lại những dấu hiệu của việc giải thích sai lầm một phán quyết và khẳng định rằng “rất nhiều chuyên gia ở trường đại học vẫn còn chưa nắm được kỹ thuật giải thích phán quyết mà họ phải giảng dạy.”.
Việc hiểu được các phán quyết có lẽ là khó khăn, bởi chúng được viết khá ngắn gọn và đặc biệt là bởi trên thực tế chúng mang tính kỹ thuật cao; chính tính kỹ thuật này thông thường kéo theo những sai sót trong việc giải thích án lệ. Hậu quả là, người nghiên cứu/ giảng dạy phải học tập, một số tác giả không ngại ngần mà cho rằng “việc học luật và kỹ thuật phá án lẽ ra phải mang tính bắt buộc đối với những người muốn hành nghề trong lĩnh vực pháp luật và xét xử, bởi thiếu những kiến thức này người hành nghề luật và các chuyên gia trong trường đại học mắc những lỗi giải thích lớn” (Jacques Ghestin).
Để sửa chữa cho việc giải thích sai lầm án lệ và tránh mọi hiểu lầm các phán quyết, gây ảnh hưởng đến uy tín của học thuyết, nhiều phương pháp có thể được xem xét. Người nghiên cứu/ giảng dạy có thể tham gia một khóa đào tạo được thực hiện bởi những người hành nghề luật, hoặc nếu không, một khóa đào tạo lý thuyết.
Như vậy, người làm ra án lệ và học thuyết đều phải thỏa mãn những điều kiện: phải đưa ra những luận điểm giải thích được kết luận của mình, phải được đào tạo để nắm được nghĩa của các phán quyết, nếu không người nghiên cứu/ giảng dạy không thể bình luận được án lệ (II).
II. Phương pháp bình luận án lệ
Luật gia là người “bàn luận, phản đối, diễn đạt tinh vi, làm bối rối” (Jean-Denis Bredin); vì thế người nghiên cứu/ giảng dạy cần được tự do trong việc sử dụng án lệ (A) để đào tạo được một lượng người đọc đông đảo là những nhà thực hành luật (trong tương lai) (B).
A. Phương pháp: sự tự do
Sự tự do dẫn đường cho người nghiên cứu/ giảng dạy cả về hình thức (1) lẫn nội dung (2).
1. Về hình thức
Học thuyết viết và nói vô cùng phong phú.
Việc sản sinh học thuyết nói (các giờ học luật, các ý kiến trình bày và tranh luận trong hội thảo…) có điểm yếu là không để lại dấu vết bằng văn bản nhưng cho phép những người nghiên cứu/ giảng dạy trao đổi trực tiếp và đóng góp vào việc xây dựng danh tiếng của tác giả.
Các nghiên cứu viết được gộp lại trong những văn bản khác nhau (ghi chú bản án, tạp chí, luận án, giáo trình, bài báo…) miễn phí hoặc phải trả phí. Nếu đa số tác giả quyết định tham gia vào tạp chí này thay vì tạp chí khác, một số không ngần ngại tham gia vào một tạp chí cố định và xây dựng một mục trong đó, hay tham gia vào các tạp chí do sinh viên luật viết. Sự đa dạng này góp phần giúp các sách báo thỉnh thoảng bị coi là khô khan trở nên dễ tiếp cận hơn.
Việc coi án lệ như một nguồn của luật làm xuất hiện một loại tác phẩm nghiên cứu mới: ghi chú bản án. Trên nguyên tắc, người ta có thể cho rằng tác phẩm này chức năng chủ yếu, đó là: chức năng tìm hiểu, chức năng phân tích và chức năng bình luận. Ngày nay người ta chỉ trích các ghi chú bản án, vốn đang trong giai đoạnkhủng hoảng, vì đã bỏ qua chức năng bình luận trong khi “với chức năng định hướng án lệ (…), việc ghi chú bao hàm nghĩa vụ tư vấn, từ đó có một quyền lực chỉ trích nhất định” (Jean Carbonnier).
Vì thế, giới nghiên cứu Pháp rất coi trọng sự đa dạng của các loại văn bản, đồng thời coi trọng cả sự đa dạng của các quan điểm được thể hiện (2).
2. Về nội dung
Một số nhà nghiên cứu/ giảng dạy Pháp đôi khi lạc vào một trong hai thái cực: hoặc là phụ thuộc quá nhiều vào quan điểm của Hội đồng thẩm phán tối cao; hoặc là tự do chỉ trích quá gay gắt.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi cho rằng học thuyết chỉ được tạo lập bởi “những tác giả chỉ bảo vệ khoa học chứ không bảo vệ những lợi ích cụ thể” (Pierre-Yves Gautier). Tuy nhiên, một số thành viên của cơ quan tài phán đã có thể viết trên các tạp chí, tham gia vào các hội thảo hay hoạt động nghiên cứu. Vì vậy một số nhà nghiên cứu (ở đại học) đặt câu hỏi về sự độc lập của những đối tượng trên khi nghiên cứu, nghi ngờ về “thái độ quy chiếu và cung kính” của các nhà nghiên cứu đối với họ và tố cáo một “hiện tượng xun xoe” (Pierre Delvolvé).
Ngược lại, một số tác giả sử dụng quyền tự do ngôn luận khá lớn so với các thẩm phán và tố cáo sự “hiểu sai” của các thẩm phán, đồng thời cho họ “điểm không về dân luật” (Christian Larroumet, L’acquéreur de l’immeuble et la caution du locataire, D. 2000, Chron. tr. 155).
Nếu không có sự tôn trọng lẫn nhau giữa những người nghiên cứu/ giảng dạy và cơ quan tài phán, hành chính sẽ không thể có một đối thoại thực sự. Học thuyết chỉ để dành cho người làm ra học thuyết. Tuy nhiên, học thuyết cần nhắm đến đối tượng người đọc phong phú hơn nhiều (B).
B. Những người hưởng lợi: người hành nghề luật (trong tương lai)
Nếu rõ ràng sinh viên là người được thụ hưởng từ những công trình nghiên cứu (1), việc đo lường ảnh hưởng của các công trình này đến người hành nghề luật khó hơn nhiều (2).
1. Những người hành nghề luật trong tương lai
Những người hành nghề luật, thẩm phán, luật sư, công chứng viên, công tố viên, thư ký tòa… nói chung là những người hành nghề luật và xét xử đều là những “đứa con của học thuyết”. Họ đều đã được theo đuổi việc đào tạo tại trường đại học và do đó hiểu biết về các quy định pháp luật, án lệ hiện hành và những thảo luận về học thuyết nhờ những người nghiên cứu/ giảng dạy.
Những tranh luận về học thuyết liên quan đến “tòa lâu đài pháp lý”, việc xây dựng nó và “bản vẽ” của nó khiến sinh viên hiểu hệ thống pháp luật và xây dựng được những quan điểm pháp lý. Học thuyết được xây dựng bởi những nhà nghiên cứu và giảng viên đại học, do đó, có chức năng phổ biến luật và việc áp dụng thông qua hoạt động xét xử, làm cho chúng dễ tiếp cận hơn đối với những người hành nghề luật trong tương lai… cũng như những người nghiên cứu.
Nhiệm vụ này tuy rõ ràng nhưng, chỉ là bề nổi của tảng băng. Người ta vẫn còn phải tìm hiểu liệu học thuyết có ảnh hưởng gì đến những người đã có bằng đại học và đang thực hiện những hoạt động thực tiễn trong giới luật (2).
2. Những người đang hành nghề luật
Bởi cả những lý do về kỹ thuật (sự đa dạng của các quan điểm khoa học và sự tồn tại của án lệ đã khá vững vàng) cũng như thực tiễn (thiếu thời gian), các thẩm phán không thể nắm được hết các quan điểm khoa học.
Trên thực tế, như Hiệu trưởng Carbonnier đã viết “lĩnh vực nơi quan điểm khoa học có ảnh hưởng nhiều nhất, đó là nơi án lệ chưa hình thành”: đây chính là nhiệm vụ quan trọng nhất của quan điểm khoa học đối với những người hành nghề luật: giúp đỡ họ trong việc đưa ra một giải pháp, khơi gợi cho họ một hướng đi. Lĩnh vực liên quan càng mới và phức tạp, những ý tưởng của họ càng được chăm chú lắng nghe, không chỉ bởi cơ quan xét xử mà còn bởi cơ quan làm luật.
Pierre-Yves Gautier đã đưa ra một số tác giả mà ý tưởng của họ đã được án lệ tiếp thu. “Những ví dụ? Chúng nhiều không đếm nổi và những cái tên điển hình (…) không hề thiếu. Joseph-Emille Labbé? Các nền móng của bảo hiểm nhân thọ. René Demogue? Nghĩa vụ ngay tình, các nghĩa vụ phương tiện và hành vi. Aubry và Rau? Học thuyết về di sản (thừa kế, pháp nhân), đắc lợi vô căn, học thuyết về bằng chứng. Eugène Gaudemet? Sự chấm dứt nợ. Raymond Saleilles? Sự cam kết bằng ý chí đơn phương, học thuyết về hình phạt. Marcel Planiol? Phân tích mới về quyền thực tế hoặc về các khế ước không tên. Capitant? Học thuyết về lý do.”.
Dù vậy, không phải vì án lệ đã ổn định mà người nghiên cứu/ dạy luật phải từ bỏ viết lách: các quan điểm khoa học và các tranh luận khoa học, dù không được chú ý quan tâm ngay từ đầu bởi các thẩm phán, có thể trở thành phương tiện của các luật sư khi viết các bản bào chữa, các luật sư có nghĩa vụ tìm thấy những luận điểm pháp lý để củng cố cho quan điểm của họ, và góp phần vào việc gây ảnh hưởng đến án lệ trong tương lai xa.
Vì thế, Pierre-Yves Gautier cho rằng “trong bối cảnh án lệ chiếm một vị trí quan trọng với tư cách là nguồn của luật, chúng ta có nghĩa vụ vỗ tay ủng hộ nó khi cần, bởi chúng ta tán đồng với giải pháp được bình luận, hoặc ngược lại chỉ trích một cách có suy xét, và nhớ rằng phải bỏ qua lối lập luận pháp lý hình thức, để đưa ra một lối lập luận khác phù hợp hơn” và ông thêm vào lời khuyên sáng suốt này: “cần chú ý rằng đừng viết dài quá, bởi nếu không sẽ không ai đọc”.
Để kết luận và áp dụng lời khuyên của giáo sư Gautier, ở Pháp, chỉ có sự tự do mà những người nghiên cứu/ giảng dạy luật có được trong việc sử dụng án lệ – sự tự do này có thể thực hiện được nhờ những luận điểm giải thích các phán quyết, được tạo điều kiện bởi sự tiếp cận dễ dàng các phán quyết – mới cho phép các quan điểm khoa học sử dụng một cách hiệu quả án lệ để đào tạo các sinh viên luật và góp phần xây dựng trật tự pháp lý của xã hội./.
Tác giả: Pierre Macqueron – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2015 (89)/2015 – 2015, Trang 68-73
Like Fanpage Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời