• Trang chủ
  • Hiến pháp
  • Hình sự
  • Dân sự
  • Hành chính
  • Hôn nhân gia đình
  • Lao động
  • Thương mại

Luật sư Online

Tư vấn Pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, ly hôn, thừa kế, đất đai

  • Kiến thức chung
    • Học thuyết kinh tế
    • Lịch sử NN&PL
  • Cạnh tranh
  • Quốc tế
  • Thuế
  • Ngân hàng
  • Đất đai
  • Ngành Luật khác
    • Đầu tư
    • Môi trường
 Trang chủ » Sử dụng bản án trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Luật TP. HCM – Những vấn đề nhìn từ góc độ đảm bảo chất lượng

Sử dụng bản án trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Luật TP. HCM – Những vấn đề nhìn từ góc độ đảm bảo chất lượng

14/05/2020 23/05/2021 ThS. Vũ Duy Cương & Phạm Đình Phú Leave a Comment

Mục lục

  • 1. Khái niệm bản án dùng trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học luật học
  • 2. Vấn đề sử dụng bản án trong giảng dạy luật học
    • 2.1. Những khó khăn khi sử dụng bản án để giảng dạy luật
    • 2.2. Tiêu chí lựa chọn bản án
    • 2.3. Các bước sử dụng bản án trong giảng dạy
  • 3. Vấn đề sử dụng bản án trong nghiên cứu luật học
  • 4. Hướng tiếp cận, thu thập bản án
  • 5. Những khuynh hướng tương lai
    • 5.1. Sự phát triển của hệ thống tư pháp
    • 5.2. Sử dụng hồ sơ bản án thay vì sử dụng bản án
    • 5.3. Nâng cao năng lực của giảng viên, người sử dụng bản án để giảng dạy
  • CHÚ THÍCH

Sử dụng bản án trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Luật TP. HCM – Những vấn đề nhìn từ góc độ đảm bảo chất lượng

Sử dụng bản án trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Luật TP. HCM – Những vấn đề nhìn từ góc độ đảm bảo chất lượng

  • Kinh nghiệm về sử dụng bản án, quyết định của Tòa án trong đào tạo nghề luật – PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng
  • Sử dụng bản án của Tòa án trong giảng dạy thảo luận – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
  • Việc sử dụng quyết định của Tòa án trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy tại Cộng hòa Pháp – TS. Pierre Macqueron
  • Tổng quan phương pháp giảng dạy qua án trong chuyên ngành luật từ các nước trong hệ thống thông luật và dân luật – TS. Phan Nhật Thanh
  • Thực trạng và ý nghĩa của việc sử dụng bản án trong công tác đào tạo luật ở Việt Nam – TS. Bùi Xuân Hải
  • Sử dụng bản án trong giảng dạy: Góc nhìn từ người làm thực tiễn – LS. Trương Nhật Quang
  • Sử dụng bản án để xây dựng tình huống trong đào tạo luật – PGS.TS. Phan Huy Hồng
  • Bàn về việc sử dụng bản án làm chất liệu thiết kế bài giảng môn học chuyên ngành luật – TS. Phan Thị Thành Dương
  • Sơ lược về sử dụng bản án trong công tác nghiên cứu khoa học – PGS.TS. Trần Thị Thùy Dương
  • Sử dụng bản án trong giảng dạy pháp luật phần lý thuyết – kinh nghiệm qua một trường hợp ở Anh – TS. Đỗ Thị Mai Hạnh

TỪ KHÓA: Bản án, Nghiên cứu khoa học,

Bài viết trình bày quan điểm của các tác giả tập trung vào việc nêu ra một số khó khăn trong việc thu thập, sử dụng bản án để giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở phân tích những điều kiện cụ thể, nhóm tác giả cũng đề xuất một số giải pháp để khắc phục và đưa ra một số dự đoán về khuynh hướng sử dụng bản án trong giai đoạn sắp tới.

Sử dụng bản án trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học (NCKH) luật học là một trong những ý tưởng không mới nhưng lại tạo ra những tiền đề khoa học khả thi để cán bộ, giảng viên có những tư duy chuyên sâu nhằm hoàn thiện phương pháp đào tạo, nghiên cứu khoa học. Bài viết này nêu quan điểm cá nhân về một số vấn đề cần quan tâm khi sử dụng bản án trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh nói riêng và trong việc đào tạo luật học nói chung – dưới góc độ của hoạt động đảm bảo chất lượng[1]: bao gồm: (1) nội hàm khái niệm bản án dùng trong giảng dạy và NCKH luật học, (2) vấn đề sử dụng bản án trong giảng dạy luật học, (3) vấn đề sử dụng bản án trong NCKH, (4) hướng tiếp cận và thu thập bản án, (5) những khuynh hướng trong tương lai (sự phát triển của hệ thống tư pháp và vấn đề sử dụng bản án hay hồ sơ vụ án).

Xem thêm tài liệu liên quan:

  • Bàn về xây dựng hành lang pháp lý cho tổ chức hoạt động và giảng dạy nghiên cứu khoa học của các đơn vị giáo dục Đại học Luật công lập
  • Sử dụng bản án trong giảng dạy: Góc nhìn từ người làm thực tiễn
  • Việc sử dụng quyết định của Tòa án trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy tại Cộng hòa Pháp
  • Sử dụng bản án trong giảng dạy pháp luật phần lý thuyết – Kinh nghiệm qua một trường hợp ở Anh
  • Sơ lược về sử dụng bản án trong công tác nghiên cứu khoa học
  • Sử dụng bản án của Tòa án trong giảng dạy thảo luận
  • Bàn về việc sử dụng bản án làm chất liệu thiết kế bài giảng môn học chuyên ngành luật
  • Tổng quan phương pháp giảng dạy qua án trong chuyên ngành luật từ các nước trong hệ thống thông luật và dân luật
  • Ý nghĩa của việc nghiên cứu bản án, quyết định của Tòa án
  • Sử dụng bản án để xây dựng tình huống trong đào tạo luật

1. Khái niệm bản án dùng trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học luật học

Bản án là quyết định được tòa án nhân danh nước CHXHCN Việt Nam ban hành khi xét xử các vụ án và giải quyết các vụ việc khác theo quy định của pháp luật[2]. Đây là khái niệm bản án được luật Việt Nam quy định và cũng là cách hiểu của rất nhiều người. Từ cách hiểu đó, người ta liên tưởng đến bản án là các văn bản thật với tên gọi là bản án, được tòa án ban hành theo thể thức và bao gồm những nội dung như Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định. Tuy vậy, trong vấn đề giảng dạy và nghiên cứu luật học, với rất nhiều lĩnh vực nghiên cứu, hướng nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, “bản án” có thể được thể hiện dưới rất nhiều dạng[3], miễn sao tài liệu đó ẩn chứa những tình tiết, tình huống pháp lý có liên quan cần được sử dụng. Do vậy, theo chúng tôi, hàm nghĩa “bản án” phải được hiểu là tất cả những tài liệu thực tế, chứa đựng những tình huống pháp lý có liên quan được sử dụng để phục vụ việc giảng dạy và nghiên cứu luật học[4].

Tuy nhiên, trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết này, và do tính chất liên quan của các loại “bản án”, chúng tôi tập trung vào nghiên cứu bản án với cách hiểu là các quyết định được Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước ban hành khi xét xử các vụ án và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật.

2. Vấn đề sử dụng bản án trong giảng dạy luật học

Để ban hành một bản án, Tòa án xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân[5]. Như vậy, mục đích của việc ban hành bản án là để thực hiện chức năng tư pháp, giải quyết tranh chấp, không có một bản án được thiết kế dành riêng cho hoạt động giảng dạy. Mối quan hệ giữa bản án và việc giảng dạy luật học là mối quan hệ giữa thực tế cuộc sống và việc tìm hiểu thực tế cuộc sống, việc sử dụng bản án trong giảng dạy chính là việc phải phân loại, chọn lọc, sử dụng những điểm phù hợp cho chương trình giảng dạy, nội dung giảng dạy[6]. Đối với mỗi môn học cụ thể[7], một cách tổng quan, sử dụng bản án chính là việc đưa ra những nội dung có liên quan của bản án làm giáo cụ cho việc giảng dạy[8].

2.1. Những khó khăn khi sử dụng bản án để giảng dạy luật

Bản án là kết quả xét xử của Tòa án đối với một vụ án pháp lý cụ thể, mang tính quyền lực nhà nước. Do đó, khi sử dụng bản án trong đào tạo luật, giảng viên và sinh viên không tránh khỏi một số khó khăn nhất định trong việc tiếp cận, thu thập, nghiên cứu, sử dụng nguồn tài liệu này. Có thể kể đến những khó khăn như sau:

– Một là, tính bảo mật của bản án. Các bản án được giới hạn cho một số chủ thể được biết như: Tòa án, Viện kiểm sát, các đương sự, người bị hại, luật sư… Do đó, việc thu thập bản án là điều không dễ dàng đối với những chủ thể khác như giảng viên, sinh viên. Khó khăn này sẽ được giải quyết thông qua cách tiếp cận, thu thập bản án.

– Hai là, sau khi đã tiếp cận được bản án, khó khăn tiếp theo phải xử lý là vấn đề liên quan đến “quyền bí mật đời tư”. Đây là một trong những quyền nhân thân quan trọng gắn liền với mỗi cá nhân. Vấn đề bảo vệ quyền riêng tư đã được pháp luật quốc tế và luật trong nước bảo vệ. Bảo vệ quyền riêng tư được quy định tại Điều 12 của Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền của Liên hợp quốc[9], Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm1966[10]…; Pháp luật Việt Nam quy định quyền này trong Hiến pháp năm 2013[11], Bộ luật Dân sự năm 2005[12]… Như vậy, khi sử dụng bản án, kể như đã “tiếp cận thông tin”, do vậy, phải có giới hạn: tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác. Điều này dẫn đến một kết quả là khi sử dụng bản án phải đảm bảo việc tạo ra một “bộ lọc” để xử lý thông tin hoặc phải nhận được sự đồng ý của các cá nhân liên quan khi sử dụng.

– Ba là, sự lệ thuộc hoặc xung đột quan điểm pháp lý giữa sinh viên và Tòa án. Bản án là kết quả đã rồi của một vụ tranh chấp, sinh viên khi nghiên cứu có thể lệ thuộc vào tư tưởng, lập luận của Tòa án, dẫn đến hạn chế năng lực tư duy. Mặt khác, sinh viên cũng có những quan điểm pháp lý đối lập với quan điểm của Tòa án, từ đó có những suy nghĩ khác biệt đối với cơ quan tư pháp.

– Bốn là, sự lựa chọn bản án. Để đảm bảo hiệu quả trong việc đào tạo luật, bản án được sử dụng phải đảm bảo tính phù hợp, tính cập nhật, tính điển hình và tính biệt lệ.

– Năm là, người sử dụng bản án để giảng dạy phải là người thông thạo về bản án. Thật vậy, khi giảng dạy bằng bản án, giảng viên phải làm tròn vai của người thầy, giảng viên phải là người thông thạo về các bản án[13] để đảm bảo việc sử dụng bản án được hiệu quả và đúng đắn nhất.

2.2. Tiêu chí lựa chọn bản án

Lựa chọn bản án là “bộ lọc” đầu tiên trong quá trình sử dụng bản án để giảng dạy và NCKH, việc đặt ra các tiêu chí lựa chọn sẽ giúp đảm bảo tính phù hợp, tính cập nhật, tính điển hình và tính biệt lệ của bản án, những tiêu chí này là được xây dựng như là những tiêu chí cứng cần phải tuân thủ, bao gồm:

– Thứ nhất, nội dung bản án không đề cập những yếu tố ngoài chủ đề môn học hoặc những vấn đề quá chuyên biệt không phù hợp với mục tiêu môn học như: chính trị, tôn giáo, bí mật đời tư, bí mật kinh doanh…

– Thứ hai, giảng viên nên xác định trước mục đích giảng dạy, chủ đề môn học khi chọn bản án. Ví dụ như: chọn bản án để dạy về luật thương mại hay dạy về luật hôn nhân – gia đình. Điều này sẽ đảm bảo tính phù hợp khi sử dụng bản án.

– Thứ ba, căn cứ pháp lý để đưa ra phán quyết trong bản án vẫn còn hiệu lực tại thời điểm giảng dạy cho sinh viên. Nếu căn cứ pháp lý trong bản án không còn hiệu lực tại thời điểm giảng dạy sẽ không đáp ứng được mục tiêu của môn học.

– Thứ tư, chọn bản án chứa đựng tình huống pháp lý điển hình. Khi nghiên cứu bản án, sinh viên sẽ có cái nhìn cơ bản nhất về nội dung được giảng dạy trên lớp, làm nền tảng để nghiên cứu những vấn đề pháp lý nâng cao.

– Thứ năm, chọn bản án chứa đựng những tình huống pháp lý chưa từng có trong tiền lệ xét xử của Tòa án và chưa có căn cứ pháp lý đưa ra phán quyết. Điều này sẽ kích thích tư duy của sinh viên. Sinh viên không chỉ trao đổi, phản biện mà còn tự đưa ra giải pháp riêng giải quyết vụ việc một cách phù hợp.

– Thứ sáu, chọn bản án có hiệu lực cao nhất. Nếu một vụ việc đã được xét xử nhiều lần (bản án sơ thẩm đã có hiệu lực nhưng bị hủy, bị sửa bởi bản án khác; bản án phúc thẩm bị hủy, bị sửa và yêu cầu xét xử lại từ đầu) thì ta sẽ lấy bản án có hiệu lực sau cùng. Như vậy, tính cập nhật của vụ việc sẽ được đảm bảo. Nếu một vụ việc được xét xử qua cả hai cấp: sơ thẩm, phúc thẩm thì (nếu có thể) nên lấy cả hai bản án này. Rất có thể tư duy của một số sinh viên sẽ giống với kết quả của bản án sơ thẩm, do đó những sinh viên này có thể biết được lý do tại sao quan điểm pháp lý của tòa sơ thẩm bị hủy, bị sửa và việc hủy, sửa đổi này có phù hợp hay không.

2.3. Các bước sử dụng bản án trong giảng dạy

Sau đây là những gợi ý các bước sử dụng bản án trong giảng dạy luật:

Bước một: Dựa trên nội dung bản án, giảng viên thiết kế các câu hỏi dẫn dắt sinh viên từ mức độ đơn giản nhất đến mức độ đòi hỏi tư duy cao nhất. Câu hỏi cuối cùng luôn là “Quan điểm của anh/chị về phán quyết của Tòa án?”. Câu hỏi này vừa kích thích tư duy của sinh viên, vừa loại bỏ ảnh hưởng của quyền lực nhà nước đối với quan điểm riêng của sinh viên. Sau đây là những gợi ý cho việc thiết kế các câu hỏi thảo luận:

Một là, những câu hỏi đầu tiên chủ yếu về thông tin cơ bản nhất của vụ việc như: tư cách chủ thể (các đương sự trong vụ án dân sự là ai? người bị hại, bị cáo trong vụ án hình sự là ai?); đối tượng tranh chấp trong vụ án…

Hai là, những câu hỏi về các điều kiện khách quan trong vụ án. Đó có thể là nguyên nhân, điều kiện phạm tội trong vụ án hình sự; hoặc cũng có thể là điều kiện tác động đến việc vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa; hoặc thời điểm, không gian xảy ra vụ án… Những câu hỏi này có chức năng gợi mở và phát triển mạch tư duy của sinh viên, làm sáng tỏ vụ việc..

Ba là, những câu hỏi định hướng sinh viên tìm ra vấn đề mấu chốt của vụ việc, để từ đó nêu ra câu hỏi pháp lý mấu chốt. Trong những câu hỏi này, giảng viên có thể đặt ra thêm những câu hỏi mang tính đánh lạc hướng bằng cách nêu ra các dữ kiện có sẵn trong bản án.

Bốn là, câu hỏi cuối cùng: “Các anh/chị có đồng ý với phán quyết của Tòa án hay không? Tại sao? Quan điểm riêng của các anh/chị về vấn đề này?”

Làm quen với trình tự các câu hỏi, sinh viên sẽ có nền tảng trong việc tiếp cận, xác định nội dung bản án khi hành nghề thực tế.

Bước hai: Giảng viên phân công nhóm sinh viên tiến hành chuẩn bị, thảo luận để giải quyết nhiệm vụ được giao. Giảng viên cần nhấn mạnh với sinh viên rằng sự xung đột về quan điểm pháp lý giữa sinh viên với nhau và giữa sinh viên với Tòa án là điều khó tránh khỏi. Từ đó, sinh viên được tự do ý chí, tự do bày tỏ ý chí, đồng thời sinh viên vẫn giữ thái độ tôn trọng phán quyết của Tòa án.

Bước ba: Sinh viên làm việc theo nhóm và thực hiện nhiệm vụ được giao. Sinh viên nghiên cứu, phản biện với nhóm trước, sau đó sẽ tiến hành trình bày và bảo vệ quan điểm trước lớp. Những sinh viên có quan điểm khác biệt sẽ bảo lưu ý kiến của mình và có quyền trình bày trước lớp.

Bước bốn: Giảng viên tiến hành thảo luận trên lớp những nội dung đã yêu cầu nhóm sinh viên chuẩn bị. Giảng viên sẽ đóng vai trò dẫn dắt, định hướng sinh viên giải quyết vấn đề.

3. Vấn đề sử dụng bản án trong nghiên cứu luật học

NCKH là hoạt động tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức… thu thập được, hoạt động NCKH giúp phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Người muốn làm NCKH phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực nghiên cứu và cái chính là phải rèn luyện cách làm việc tự lực, có phương pháp từ lúc ngồi trên ghế nhà trường.

Nghiên cứu khoa học hay văn hóa nghiên cứu khoa học đòi hỏi ở người nghiên cứu cần có 8 đặc điểm: (1) “thói quen đặt câu hỏi” , (2) “nói có sách, mách có chứng”, (3) “tôn trọng sự thật khách quan”, (4) “làm việc và thực hành dựa vào bằng chứng khách quan”, (5) “hệ thống hóa những gì mình biết, không dấu diếm”, (6) “dân chủ”, (7) “chuẩn bị sự kế thừa cho người nghiên cứu sau”, (8) “trách nhiệm xã hội”. Trong 8 đặc điểm trên, ta nhận thấy các đặc điểm 1, 2, 3, 4 là các “yêu cầu đầu vào” của việc nghiên cứu khoa học nguồn[14]. Bản án dùng trong nghiên cứu khoa học ngành luật[15], do vậy, cũng cần thỏa mãn các yếu tố tương thích với 4 đặc điểm trên:

Đặc điểm số 1 yêu cầu bản án được sử dụng là bản án hàm chứa các tình huống pháp lý: là các sự kiện, vấn đề pháp lý cần được giải quyết, đó có thể là một vấn đề nan giải, một tình tiết mà luật còn bỏ ngỏ. Để phát hiện ra những tình huống pháp lý này, tùy thuộc vào trình độ, các nhìn nhận của mình, người sử dụng bản án nhận biết tình tiết “đắt giá” trong bản án thông qua các lăng kính khoa học mà họ được trang bị.

Đặc điểm số 2, 3, 4 yêu cầu bản án được sử dụng phải là bản án thật: bản án thật ở đây là bản án được tiếp cận và có thể được trình bày như một bằng chứng khi cần thiết (đặc điểm số 2); bản án thật là bản án thu thập từ các nguồn nguyên gốc và mang nội dung, tình huống pháp lý nguyên gốc, những sửa đổi, bổ sung qua các “bộ lọc” là những sửa đổi không tác động đến nội dung cần nghiên cứu, tránh ảnh hưởng đến tính chân thực của bản án, của hoạt động nghiên cứu (đặc điểm số 3, 4).

4. Hướng tiếp cận, thu thập bản án

Do bản án được giới hạn cho một số chủ thể được biết nên việc tiếp cận bản án là điều không dễ dàng[16]. Sau đây, xin liệt kê những cách thức khả dĩ có thể thu thập bản án và dần hình thành cơ chế để thu thập bản án:

-Thứ nhất, tận dụng những bản án được công khai, phát hành rộng rãi: Với bản án trong nước, đó là các bản án giám đốc thẩm được Tòa án nhân dân tối cao in thành sách để phổ biến, hoặc nội dung bản án giám đốc thẩm được công khai trên cổng thông tin của Tòa án nhân dân tối cao; với bản án ngoài nước, giảng viên và nhà trường cần tận dụng các nguồn sẵn có là án từ các quốc gia hệ thống pháp luật án lệ, các quốc gia có các hoạt động pháp điển hóa bản án, các chủ thể có truyền thống phổ biến các bản án giải quyết tranh chấp (như WTO, các trọng tài quốc tế công)… Đây là các nguồn bản án có thể tiếp cận khá dễ dàng bằng các công cụ tin học điện tử.

-Thứ hai, sử dụng mối quan hệ vốn có của giảng viên với các nguồn có thể thu thập bản án[17]. Giảng viên khi thu thập bản án phải cam kết và chịu trách nhiệm cá nhân với các cơ quan này, nội dung cam kết là về bảo mật những thông tin trong nội dung hồ sơ / bản án, mục đích sử dụng bản án là để giảng dạy, mức độ cam kết tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa cá nhân giảng viên và nơi cung cấp bản án. Và để tạo niềm tin cho những nơi cung cấp, đồng thời hình thành một cơ chế chuyên nghiệp cho việc thu thập bản án, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh nên hỗ trợ giảng viên như cung cấp thư giới thiệu giảng viên, tạo ra một bộ phận sàng lọc và sửa đổi/thay thế những nội dung “nhạy cảm” của bản án mà các đối tượng cung cấp không muốn truyền bá ra ngoài, hình thành các cơ chế hậu kiểm để tránh việc giảng viên dùng các thông tin không được phép[18] để mang ra giảng dạy.

-Thứ ba, chủ thể thu thập bản án sẽ là Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Với vai trò là trường trọng điểm quốc gia về đào tạo luật và với uy tín của mình được xây dựng trong nhiều năm trong giới luật học, nhà trường hoàn toàn có khả năng thu thập các bản án để phục vụ cho hoạt động giảng dạy và đào tạo luật. Việc thu thập này sẽ bằng con đường chính thức và các bản án sẽ được xử lý, lưu trữ tại thư viện như là một nguồn tài liệu cho việc học tập và nghiên cứu của các đối tượng trong nhà trường.

-Thứ tư, cơ quan nhà nước ở trung ương phối hợp với các cơ quan tư pháp về việc cho phép sử dụng bản án có nội dung phù hợp trong đào tạo luật. Ví dụ như Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Tòa án cho phép các giảng viên Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh sử dụng bản án để đào tạo luật.

5. Những khuynh hướng tương lai

5.1. Sự phát triển của hệ thống tư pháp

Giới luật học và nền tư pháp nước nhà đang phát triển theo xu hướng hội nhập quốc tế, do vậy, khuynh hướng sử dụng án lệ đang được xem xét một cách nghiêm túc để án lệ áp dụng tại Việt Nam. Gần đây, các văn bản cao nhất của Đảng đã nhấn mạnh vấn đề này, cụ thể, tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã nêu: “Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật”; Tiếp đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tiếp tục cho rằng: “Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ…”; Thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 11 đã ban hành Kế hoạch số 900/UBTVUQH11 ngày 21/3/2007, trong đó đặt ra nhiệm vụ “Nghiên cứu, xây dựng các tập án lệ”, thời gian thực hiện từ năm 2007 đến năm 2012[19].

Trên thực tế, theo ghi nhận của chúng tôi, vấn đề án lệ, công khai bản án đang được bàn thảo và thực hiện hết sức nghiêm túc: hội thảo, tọa đàm được tổ chức để nghiên cứu bàn thảo về vấn đề này, nhiều các dự án được nước ngoài tài trợ nhằm thu thập, công khai và minh bạch bản án[20]. Thông qua sự phát triển của việc nghiên cứu sử dụng án lệ và việc Hiến pháp và các văn bản pháp luật[21] tiếp tục ghi nhận nguyên tắc xét xử công khai của tòa án, chúng ta hoàn toàn có tin tưởng vào khả năng trong tương lai, việc sử dụng bản án trong giảng dạy và nghiên cứu luật học sẽ ngày càng dễ dàng và thuận lợi hơn.

5.2. Sử dụng hồ sơ bản án thay vì sử dụng bản án

Phán quyết của tòa án thông qua một bản án được dựa trên sự đối chọi rất gay gắt của các bên, thể hiện qua các căn cứ (chứng cứ, thông tin, tài liệu…) mà các bên cung cấp hoặc tòa án thu thập được. Để xác định những căn cứ của tòa án khi đưa ra phán quyết, cần phải xác định những tình tiết thực tế và vấn đề pháp lý đặt ra. Những tình tiết thực tế của vụ án là những tình tiết có liên quan và ảnh hưởng tới kết quả giải quyết vụ án, căn cứ để tòa án đưa ra phán quyết là những yếu tố pháp lý dựa vào đó tòa án giải quyết các vấn đề pháp luật liên quan đến các tình tiết thực tế của vụ án. Quá trình ban hành, đưa ra một bản án vì thế là một quá trình lâu dài và cần phải dựa trên việc phân tích và cân nhắc rất nhiều tài liệu liên quan để đưa ra một nhận định đúng đắn nhất.

Giảng dạy về luật bao gồm quá trình truyền đạt nội dung về luật và cách thức để hiểu, vận dụng luật pháp trong cuộc sống. Điều đó có nghĩa, người thụ hưởng quá trình giảng dạy pháp luật sẽ trải qua các giai đoạn: (1) nghe, biết, (2) hiểu, phán đoán, (3) suy luận, (4) vận dụng[22]; trong đó, giai đoạn tiếp thu cốt lõi là giai đoạn thứ 2 và 3, khi sinh viên nhận thức và nắm bắt những gì mình được truyền đạt, là giai đoạn nền tảng, mức độ bắt buộc phải có đối với người học luật (hay bất kỳ đối tượng nào muốn học tập, nghiên cứu một vấn đề gì); còn “giai đoạn vận dụng” là giai đoạn đưa những điều biết được vào trong cuộc sống, là việc thực hành để thể hiện sự hiểu biết, dùng thực tế để đo lường sự hiểu biết và củng cố sự hiểu biết về kiến thức pháp luật của sinh viên luật.

Khi sử dụng bản án trong giảng dạy luật, giảng viên là người mang bản án ra để minh họa, dẫn dắt sinh viên tìm hiểu vấn đề pháp lý, nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nội dung pháp lý mà mình đang giảng dạy. Như vậy, ta đặt ra câu hỏi là sinh viên sẽ hiểu tình tiết vụ án trước hay là hiểu quy định của pháp luật trước?

Trường hợp một, sinh viên là người đã hiểu quy định pháp lý trước, quá trình tiếp cận vụ án của sinh viên sẽ tương tự như cách thức mà tòa án tiếp cận để giải quyết vụ án (các thẩm phán, thành viên hội đồng xét xử là người đã có kiến thức luật, kiến thức thực tế cuộc sống, có kinh nghiệm xét xử vụ án). Khi đó, quá trình tìm hiểu vụ án sẽ là việc nghiên cứu các tài liệu, tình tiết liên quan để hiểu về bản chất sự việc, đánh giá các tình tiết dựa theo thước đo công lý mà pháp luật quy định.

Trường hợp hai, sinh viên là người chưa hiểu quy định pháp lý, cách tiếp cận bản án của sinh viên sẽ khác với thẩm phán. Tùy thuộc vào nội dung giảng dạy, có thể sinh viên phải học từ những điều căn bản nhất liên quan đến bản án (như nơi thụ lý đơn, chủ thể có thẩm quyền xét xử vụ án…) cho đến cách xem xét các tình tiết nội dung bản án tìm ra quy định pháp luật phù hợp giải quyết vụ án.

Theo chúng tôi, tùy vào các cấp độ học tập khác nhau, sinh viên có thể thuộc trường hợp số 1 hoặc số 2. Nhưng sinh viên/người học luật với tính chất là người đi học nội dung luật (khác với người đã có kiến thức về nội dung, đi học nghiệp vụ luật) có khuynh hướng ở vào trường hợp số 2, khi đó, họ là người chưa biết quy định của pháp luật đồng thời cũng là người đang cần được cung cấp những tình tiết vụ án để có thể hiểu và vận dụng quy định pháp lý đang/sẽ được học.

Tựu chung, trong cả hai trường hợp, việc cung cấp các tình tiết vụ án vốn là chất liệu để người tiếp xúc vụ án hiểu rõ vấn đề, là điều bắt buộc. Bản án, vốn chứa đựng thông tin về vụ án: người tham gia, nội dung vụ án, phán quyết của tòa án[23], bản án cũng như tình tiết vụ án và lập luận/nhận định của tòa án khi chấp nhận hoặc từ chối yêu cầu của các bên liên quan. Người nghiên cứu bản án rất cần nghiên cứu các lập luận này cũng như cách thức tòa án vận dụng luật vào trong cuộc sống. Cách này giúp cho người học không phải học “chay” những quy định pháp lý vốn chặt chẽ nhưng khô cứng, khó tiếp thu; đồng thời, khi được tiếp xúc thường xuyên với tài liệu thực tế, sinh viên tốt nghiệp sẽ có kỹ năng đọc bản án, kỹ năng giải quyết vấn đề, việc này giúp cho xã hội đỡ tốn thời gian đào tạo cho người lao động.

Vai trò của người học có thể được điều chỉnh tùy theo tính chất của khóa học, nội dung học sẽ truyền đạt. Nhưng tựu chung, người học là người đang đi tìm hiểu vấn đề và vẫn phải tuân thủ những logic nhất định của quá trình nhận thức, quá trình logic ấy đòi hỏi phải cung cấp những điều cần thiết bên trong và bên cạnh bản án để sinh viên có thể xem xét, phán đoán, nhận định quy định pháp luật và áp dụng quy định pháp luật đó vào tình huống thực tế.

5.3. Nâng cao năng lực của giảng viên, người sử dụng bản án để giảng dạy

Ở bậc đại học, người thầy (hay cô) không chỉ đơn giản là người giảng bài, mà còn là chuyên gia trong một lĩnh vực chuyên môn. Để truyền đạt hữu hiệu đến sinh viên, ngoài những kỹ năng sư phạm, người thầy cần phải có kiến thức về chuyên ngành để có thể khai triển những lý thuyết và ý tưởng từ nội dung của giáo trình. Song song với đó, giảng viên phải có kiến thức thực tế; hiểu bản án không chỉ qua nghiên cứu mà phải có trải nghiệm thực tế trong quá trình tố tụng bởi bản án vừa ẩn tàng những nội dung như trong giáo trình, luật pháp quy định, đồng thời, là một hiện thực khách quan cuộc sống, những vấn đề của nội dung, hình thức bản án vẫn đang nảy sinh hàng ngày[24].

Khó khăn trong vấn đề kiến thức thực tế của giảng viên dạy luật đến từ cách thức tuyển dụng, đào tạo nhân lực của nhà trường và xã hội: nguồn tuyển giảng viên phần đông không đến từ những người đã kinh qua kinh nghiệm thực tế mà đến từ những nguồn hàn lâm, thiên về nghiên cứu học thuật[25], và khi đã hoạt động trong nghề đào tạo luật, giảng viên bị pháp luật cấm làm luật sư[26], giảng viên phải hoàn thành khung tiết giảng chuẩn, tiết NCKH chuẩn. Muốn giải quyết vấn đề này, chúng tôi đề xuất việc ưu tiên tuyển dụng các đối tượng đã thực hiện nghề luật trong thực tế, đồng thời, tạo cơ chế khuyến khích giảng viên luật đi hoạt động thực tế để tăng cường nghiệp vụ cho giảng viên. Có thể xây dựng quy chế về hạn mức hoạt động ngoài trường để giảng viên đi làm việc thực tế và nộp lại các báo cáo tiếp thu kinh nghiệm thực tế cho quá trình giảng dạy chuyên môn, đồng thời làm công tác chuyển đổi các công việc thực tế này sang tiết giảng, tiết NCKH.

CHÚ THÍCH

[1] Theo bộ tiêu chuẩn ISO 9000, Đảm bảo chất lượng là toàn bộ hoạt động có kế hoạch và hệ thống được tiến hành trong hệ thống chất lượng và được chứng minh là đủ mức cần thiết để tạo sự tin tưởng thỏa đáng rằng thực thể sẽ đáp ứng các yêu cầu về chất lượng.Còn theo Project Management Institute tại A Guide to the Project Management Body of Knowledge thì “Quản lý chất lượng dự án bao gồm tất cả các hoạt động có định hướng và liên tục mà một tổ chức thực hiện để xác định đường lối, mục tiêu và trách nhiệm để dự án thỏa mãn được mục tiêu đã đề ra, nó thiết lập hệ thống quản lý chất lượng thông qua đường lối, các quy trình và các quá trình lập kế hoạch chất lượng, đảm bảo chất lượng và kiểm soát chất lượng”.

Như vậy, góc nhìn đảm bảo chất lượng cho việc dùng bản án trong giảng dạy và nghiên cứu pháp luật ở đây chính là việc chúng tôi muốn nêu những vấn đề, đề ra phương án giải quyết những vấn đề đó nhằm hướng đến mục đích xây dựng một “bộ khung” cho quá trình sử dụng bản án trong hoạt động giảng dạy và NCKH luật học tại Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh .

[2] Theo khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

[3] Khi nghiên cứu về WTO, đó là các bản báo cáo giải quyết tranh chấp của cơ quan giải quyết tranh chấp WTO, khi nghiên cứu về trọng tài thương mại thì đó là các phán quyết trọng tài…

[4] Cần nói thêm rằng, bản án mang ra giảng dạy luật không phải là án lệ. Án lệ theo nghĩa nguyên gốc nhất là bản án được tòa án có thẩm quyền công nhận và phổ biến ra bên ngoài, dùng để diễn giải các tình tiết pháp lý, là căn cứ pháp lý để xét xử vụ án. Với cách hiểu theo nghĩa hẹp, án lệ là một bản án nhưng bản án chưa chắc đã là án lệ; với cách hiểu rộng, bản án lại càng không phải là án lệ, bản án mang ra giảng dạy là là tư liệu hàm chứa tình huống lý, chứa đựng các sự kiện, vấn đề pháp lý cần được giải quyết, mổ xẻ, đó có thể là một vấn đề nan giải, một tình tiết mà luật còn bỏ ngỏ hoặc một vụ việc đã được Tòa án ra phán quyết. Do vậy, để hiểu được tình huống pháp lý, sinh viên phải vận dụng kiến thức của nhiều nguồn mà mình biết để làm sáng tỏ hơn vấn đề, dần dần, chính việc tự vận dụng kiến thức đa ngành này sẽ trở thành kỹ năng, nghiên cứu toàn diện vấn đề để thấu hiểu và đưa ra một giải pháp tối ưu nhất. Do vậy, hai khái niệm này không tương đồng với nhau từ đối tượng thụ hưởng, mục đích áp dụng đến nội dung.

[5] Theo khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

[6] Trong quá trình giảng dạy luật học tại ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh sinh viên được đào tạo những kiến thức về luật nội dung và cả luật hình thức

[7] Dựa vào chuẩn đầu ra cho từng ngành đào tạo của mình, các trường sẽ xây dựng chương trình đào tạo phù hợp chuẩn đầu ra đã công bố nhằm đào tạo, rèn luyện sinh viên về kiến thức, kỹ năng, thái độ – đây cũng là mục đích của các môn học trong chương trình đào tạo

[8] Theo định hướng tư duy mới về dạy học bậc đại học, học là quá trình kiến tạo; sinh viên tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lý thông tin… tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất, đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai; dạy học bậc đại học là tổ chức hoạt động nhận thức cho sinh viên, dạy sinh viên cách tìm ra chân lý, chú trọng hình thành các năng lực (sáng tạo, hợp tác…) dạy phương pháp và kỹ thuật lao động khoa học, dạy cách học. Nội dung học tập đến từ nhiều nguồn khác nhau: sách giáo khoa, giảng viên, các tài liệu khoa học phù hợp, thí nghiệm, bảo tàng, thực tế… gắn với: vốn hiểu biết, kinh nghiệm và nhu cầu của sinh viên, tình huống thực tế, bối cảnh và môi trường địa phương, những vấn đề sinh viên quan tâm; Phương pháp học tập là phương pháp tìm tòi, điều tra, giải quyết vấn đề, hướng đến dạy học tương tác; Nơi học tập cơ động, linh hoạt (học ở lớp, ở phòng thí nghiệm, ở hiện trường, trong thực tế…, học cá nhân, học đôi bạn, học theo cả nhóm, cả lớp đối diện với giáo viên…).

– Xem Nguyễn Thành Hải, Phương pháp học tập chủ động ở bậc đại học, Trung tâm Nghiên cứu cải tiến phương pháp dạy và học đại học-http://casa.ussh.vnu.edu.vn, 2010.

[9] Điều 12.

“Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tùy tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy.”

[10] Điều 17.

“1. Không ai bị can thiệp một cách tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín.

2. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những can thiệp hoặc xâm phạm như vậy.”

[11] Điều 21.

“1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.

Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.”

[12] Điều 38. Quyền bí mật đời tư

“1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.

Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”

[13] Thông thạo bản án ở đây được hiểu là thông thạo về hình thức bản án và nội dung, tình tiết pháp lý trong bản án

[14] Khi đó, người làm NCKH là người: (1) có thói quen đặt câu hỏi tại sao, đào sâu suy nghĩ trước một sự kiện hay sự vật, từ đó phát hiện vấn đề, tìm tòi giải pháp để giải quyết; (2) nói có sách, mách có chứng, truyền thụ và dẫn dắt dựa trên nền tảng kiến thức đã được củng cố từ trước, bởi không có một kiến thức nào là hoàn toàn mới hay đứng độc lập với các kiến thức được tìm ra trước đó; (3) tôn trọng sự thật khách quan; thật vậy, người có văn hóa nghiên cứu phải dựa trên những cứ liệu thật, trên những điều thực tế mình thu thập được, người nghiên cứu không sửa đổi, thay thế sự thực mà mình thu thập được, họ phải tôn trọng sự thực khách quan vì mục đích nghiên cứu của họ là tìm hiểu và cải thiện chính sực thực khách quan đó; (4) hạn chế niềm tin và kinh nghiệm cá nhân là các yếu tố chủ quan một chiều, đặt những yếu tố chủ quan ấy trong các mối tương quan với các thử nghiệm khách quan để làm nền tảng cho các hành động, các phát biểu khoa học.

[15] Trong tổng thể quá trình NCKH luật học, bản án chính là một loại tài liệu gốc, thực tế mang những nội dung, chất liệu của quá trình NCKH luật học. Thu thập và nghiên cứu bản án là một công việc quan trọng cần thiết và làm nền tảng cho NCKH luật học. Đây là nguồn kiến thức quý giá được tích lũy qua quá trình nghiên cứu mang tính lịch sử lâu dài với mục đích giúp cho người nghiên cứu có thêm kiến thức rộng, sâu về lĩnh vực đang nghiên cứu, tránh trùng lập với các nghiên cứu trước đây, giúp xây dựng luận cứ (bằng chứng) để chứng minh giả thuyết NCKH.

[16] Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai được quy định tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013; Điều 11 Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014, nhưng trong thực tế, không có quy định nào bắt buộc tòa án phải (chủ động) công khai bản án nên việc tiếp cận bản án của người nghiên cứu là vô cùng khó khăn. Đối với các đương sự trong vụ án, việc tiếp cận bản án cũng có khó khăn nhất định vì các thủ tục tố tụng và vì sự chậm trễ của công tác lưu trữ, văn thư tòa án nhân dân các cấp.

[17] Các nguồn có thể tìm thấy các bản án là các cơ quan tòa án, viện kiểm sát, thi hành án, cơ quan bổ trợ tư pháp (luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại), cơ quan hành chính tư pháp (chứng thực, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp, phổ biến, giáo dục pháp luật, hợp tác quốc tế về pháp luật, trợ giúp pháp lý, đăng ký giao dịch bảo đảm)…

[18] Thông tin không được phép ở đây được hiểu là các thông tin mà pháp luật cấm, thông tin mà các chủ thể cung cấp bản án không đồng ý công khai, thông tin có thể gây bất lợi cho các đối tượng liên quan mà “bộ lọc” nhà trường thấy rằng không được công khai. Sẽ có người đặt vấn đề về việc giảng viên không công khai, nhưng nội dung lại bị phát tán từ nguồn khác thì sẽ như thế nào. Chúng tôi đề xuất cơ chế nhấn mạnh đến đạo đức nghề nghiệp của giảng viên, giảng viên trong trường hợp đó không thể ngăn cản sự phát tán của thông tin được (không biết đích xác nguồn phát tán), tuy nhiên, trong tổng thể quy trình chung của việc giảng dạy, giảng viên không được mang những nội dung đó ra giảng dạy và phải từ chối việc trả lời, bàn thảo về các thông tin đó với tư cách giảng viên của Đại học Luật (khi không sử dụng tư cách giảng viên Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, giảng viên tự chịu trách nhiệm cá nhân khi sử dụng những thông tin không được phép).

[19] Ngô Cường, “Sự cần thiết phải xây dựng, áp dụng án lệ trong hoạt động xét xử”, Kỷ yếu hội thảo Áp dụng án lệ của Tòa án nhân dân tối cao, 8/2014.

[20] Điển hình như việc cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao đã cung cấp các bản án giám đốc thẩm miễn phí dưới dạng điện tử thay vì phải đi mua tài liệu giấy như trước kia, và trong nội bộ ngành tòa án, chúng tôi được biết cũng đã được đầu tư các hệ thống máy móc, phần mềm thu thập bản án, quản lý quá trình xử lý/giải quyết vụ án.

[21] Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai được quy định tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013; Điều 11 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

[22] Có nhiều cách thức mới về quá trình dạy học đại học như đã nêu, nhưng về quy luật, vấn đề nhận thức khi học đại học được triết học Mark-Lenin xếp vào dạng nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng), dạng nhận thức này có 3 bước: Khái niệm, phán đoán, suy luận; trong đó, để đáp ứng nhu cầu mới của giáo dục-học đi đôi với hành, chúng tôi đặt ra cả bước vận dụng vào trong quá trình học đại học của sinh viên.

[23] Mẫu bản án sơ thẩm (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31 tháng 3 năm 2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao)

[24] Vấn đề phát sinh có thể đến từ quy định pháp luật chưa hợp lý hoặc đến từ việc áp dụng quy định pháp luật chưa hợp lý, nhưng theo quy luật thông thường, không có một chủ thể nào tự nguyện công khai “lỗi” của mình để mọi người xem xét, chỉ có người thực sự trong cuộc mới có thể nắm bắt và hiểu các điểm “lỗi” ấy.

[25] Có nhiều lập luận bảo vệ cho cách thức tuyển dụng và sử dụng này, trong đó, họ nhấn mạnh vào mục đích đào tạo của Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh là đào tạo kiến thức luật, cách nhận thức vấn đề, còn các kỹ năng thực tế đã có các trường đào tạo kỹ năng hành nghề luật đào tạo (học viện tư pháp có các lớp đào tạo nghiệp vụ thư ký tòa án, nghiệp vụ thẩm phán). Nhưng lý luận và thực tế cuộc sống chứng minh cách suy nghĩ như vậy là không hiệu quả, học phải đi đôi với hành, đào tạo nhân lực cho xã hội phải là những người xã hội sử dụng được, nếu không đào tạo được nhân lực phục vụ tốt cho xã hội thì sẽ bị cạnh tranh, đào thải bởi các chủ thể khác làm việc hiệu quả hơn.

[26] Bằng cách này hay cách khác, không nhất thiết phải có danh xưng luật sư mới có thể hành nghề luật, nhưng việc quy định cứng trong luật đã phần nào hạn chế khả năng hành nghề luật của người giảng viên.

Tác giả: NCS.ThS. Vũ Duy Cương – Giám đốc Trung tâm Đảm bảo chất lượng và Phương pháp Giảng dạy, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.

Phạm Đình Phú – Chuyên viên Trung tâm Đảm bảo chất lượng và Phương pháp Giảng dạy, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh

Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2015 (89)/2015 – 2015, Trang 11-19

Like Fanpage Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/

Chia sẻ bài viết:
  • Share on Facebook

Bài viết liên quan

Bàn về xây dựng hành lang pháp lý cho tổ chức hoạt động và giảng dạy nghiên cứu khoa học của các đơn vị giáo dục Đại học Luật công lập
Bàn về xây dựng hành lang pháp lý cho tổ chức hoạt động và giảng dạy nghiên cứu khoa học của các đơn vị giáo dục Đại học Luật công lập
Bình luận bản án: Bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại
Bình luận bản án: Bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại
Một số vấn đề pháp lý từ bản án VLM FOOD TRADING INTERNATIONAL, INC. V. ILLINOIS TRADING CO., 2013 WL 816103 (N.D.ILL.2013) của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
Một số vấn đề pháp lý từ bản án VLM FOOD TRADING INTERNATIONAL, INC. V. ILLINOIS TRADING CO., 2013 WL 816103 (N.D.ILL.2013) của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam
Sử dụng bản án trong giảng dạy pháp luật phần lý thuyết – Kinh nghiệm qua một trường hợp ở Anh
Sử dụng bản án trong giảng dạy pháp luật phần lý thuyết – Kinh nghiệm qua một trường hợp ở Anh
Việc sử dụng quyết định của Tòa án trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy tại Cộng hòa Pháp
Việc sử dụng quyết định của Tòa án trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy tại Cộng hòa Pháp
Tổng quan phương pháp giảng dạy qua án trong chuyên ngành luật từ các nước trong hệ thống thông luật và dân luật:
Tổng quan phương pháp giảng dạy qua án trong chuyên ngành luật từ các nước trong hệ thống thông luật và dân luật

Chuyên mục: Học luật/ Phương pháp giảng dạy Từ khóa: Bản án/ Nghiên cứu khoa học/ Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2015

Previous Post: « Thực trạng và ý nghĩa của việc sử dụng bản án trong công tác đào tạo luật ở Việt Nam
Next Post: Sử dụng bản án trong giảng dạy: Góc nhìn từ người làm thực tiễn »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

Tìm kiếm nhanh tại đây:

Tài liệu học Luật

  • Trắc nghiệm Luật | Có đáp án
  • Nhận định Luật | Có đáp án
  • Bài tập tình huống | Đang cập nhật
  • Đề cương ôn tập | Có đáp án
  • Đề Thi Luật | Cập nhật đến 2021
  • Giáo trình Luật PDF | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | TRẢ PHÍ
  • Từ điển Luật học Online| Tra cứu ngay

Tổng Mục lục Tạp chí ngành Luật

  • Tạp chí Khoa học pháp lý
  • Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
  • Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
  • Tạp chí Kiểm sát
  • Tạp chí nghề Luật

Chuyên mục bài viết:

  • An sinh xã hội
  • Cạnh tranh
  • Chứng khoán
  • Cơ hội nghề nghiệp
  • Dân sự
    • Luật Dân sự Việt Nam
    • Tố tụng dân sự
    • Thi hành án dân sự
    • Hợp đồng dân sự thông dụng
    • Pháp luật về Nhà ở
    • Giao dịch dân sự về nhà ở
    • Thừa kế
  • Doanh nghiệp
    • Chủ thể kinh doanh và phá sản
  • Đất đai
  • Giáo dục
  • Hành chính
    • Luật Hành chính Việt Nam
    • Luật Tố tụng hành chính
    • Tố cáo
  • Hiến pháp
    • Hiến pháp Việt Nam
    • Hiến pháp nước ngoài
    • Giám sát Hiến pháp
  • Hình sự
    • Luật Hình sự – Phần chung
    • Luật Hình sự – Phần các tội phạm
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Luật Tố tụng hình sự
    • Thi hành án hình sự
    • Tội phạm học
    • Chứng minh trong tố tụng hình sự
  • Hôn nhân gia đình
    • Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam
    • Luật Hôn nhân gia đình chuyên sâu
  • Lao động
  • Luật Thuế
  • Môi trường
  • Ngân hàng
  • Quốc tế
    • Chuyển giao công nghệ quốc tế
    • Công pháp quốc tế
    • Luật Đầu tư quốc tế
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Thương mại quốc tế
    • Tư pháp quốc tế
    • Tranh chấp Biển Đông
  • Tài chính
    • Ngân sách nhà nước
  • Thương mại
    • Luật Thương mại Việt Nam
    • Thương mại quốc tế
    • Pháp luật Kinh doanh Bất động sản
    • Pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm
    • Nhượng quyền thương mại
  • Sở hữu trí tuệ
  • Kiến thức chung
    • Đường lối Cách mạng ĐCSVN
    • Học thuyết kinh tế
    • Kỹ năng nghiên cứu và lập luận
    • Lý luận chung Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử văn minh thế giới
    • Logic học
    • Pháp luật đại cương
    • Tư tưởng Hồ Chí Minh
    • Triết học

Quảng cáo:

Copyright © 2023 · Luật sư Online · Giới thiệu ..★.. Liên hệ ..★.. Tuyển CTV ..★.. Quy định sử dụng