Mục lục
Sử dụng bản án trong giảng dạy pháp luật phần lý thuyết – Kinh nghiệm qua một trường hợp ở Anh: Phương pháp giảng dạy bằng vụ việc (case method) là phương pháp giảng dạy đào tạo luật tích cực được áp dụng ở nhiều quốc gia tiến bộ trên thế giới…
- Kinh nghiệm về sử dụng bản án, quyết định của Tòa án trong đào tạo nghề luật – PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng
- Sử dụng bản án của Tòa án trong giảng dạy thảo luận – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
- Việc sử dụng quyết định của Tòa án trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy tại Cộng hòa Pháp – TS. Pierre Macqueron
- Tổng quan phương pháp giảng dạy qua án trong chuyên ngành luật từ các nước trong hệ thống thông luật và dân luật – TS. Phan Nhật Thanh
- Thực trạng và ý nghĩa của việc sử dụng bản án trong công tác đào tạo luật ở Việt Nam – TS. Bùi Xuân Hải
- Sử dụng bản án trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Luật TP. HCM – những vấn đề nhìn từ góc độ đảm bảo chất lượng – ThS. Vũ Duy Cương – ThS. Phạm Đình Phú
- Sử dụng bản án trong giảng dạy: Góc nhìn từ người làm thực tiễn – LS. Trương Nhật Quang
- Sử dụng bản án để xây dựng tình huống trong đào tạo luật – PGS.TS. Phan Huy Hồng
- Bàn về việc sử dụng bản án làm chất liệu thiết kế bài giảng môn học chuyên ngành luật – TS. Phan Thị Thành Dương
- Sơ lược về sử dụng bản án trong công tác nghiên cứu khoa học – PGS.TS. Trần Thị Thùy Dương
TÓM TẮT
Phương pháp giảng dạy bằng vụ việc (case method) là phương pháp giảng dạy đào tạo luật tích cực được áp dụng ở nhiều quốc gia tiến bộ trên thế giới. Khác với phương pháp diễn giảng truyền thống, các tình huống giả định thường được sáng tạo để làm rõ hoặc minh họa cho phần lý thuyết. Thay vào đó, trong phương pháp giảng dạy bằng vụ việc, việc giảng lý thuyết song hành cùng các bản án được tìm kiếm, chọn lọc để giải thích, minh họa cho bài học. Cách thức sử dụng bản án khi giảng dạy pháp luật phần lý thuyết theo phương pháp giảng dạy bằng vụ việc như thế nào? Tìm hiểu về vấn đề này, một chuyên đề về các điều khoản trong luật hợp đồng của nước Anh sẽ được trình bày theo cách thức các bản án được sử dụng với mục tiêu làm rõ phần lý thuyết khi giảng dạy pháp luật.
TỪ KHÓA: Bản án, Phương pháp giảng dạy, Pháp luật, Pháp luật Anh,
Phương pháp giảng dạy bằng vụ việc (trong tiếng Anh được gọi là case method), là một phương pháp được phát triển từ khá lâu đời ở những quốc gia tiến bộ như Hoa Kỳ, EU và một số quốc gia khác. Trong lĩnh vực pháp luật, phương pháp này được hình thành từ những năm 1870, do giáo sư Chritopher Langdell khởi xướng việc thay đổi phương pháp giảng dạy từ cổ điển (chủ yếu là diễn giảng học thuyết, còn thực hành là nhiệm vụ của người học) sang phương pháp giảng dạy bằng vụ việc khi giáo sư về công tác tại khoa Luật trường Đại Học Havard (Hoa Kỳ).[1]
Phương pháp giảng dạy bằng vụ việc gặt hái được nhiều thành công đã được chứng minh trong đào tạo pháp luật.[2] Từ năm 1920, phương pháp giảng dạy luật bằng tình huống đã trở thành phương pháp giảng dạy chiếm ưu thế tại Đại học Havard. Các trường đại học luật khác của Hoa Kỳ cũng học hỏi việc sử dụng phương pháp này.[3] Hiện nay phương pháp tình huống là phương pháp giảng dạy luật chính yếu ở Hoa Kỳ, Anh, Canada, Australia, New Zealand, Singapore…[4] Bên cạnh đó, phương pháp này còn được phát triển ở những quốc gia theo truyền thống pháp luật châu Âu lục địa. Điều này được thể hiện bởi việc xây dựng những sách vụ việc (casebooks) – phương tiện chính để phục vụ cho phương pháp giảng dạy này như sách vụ việc về luật chung của châu Âu (Ius Commune Casebooks),[5] và ấn phẩm sách vụ việc về tư pháp quốc tế (Casebook on Conflict Law) cũng được các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu tiến hành.[6]
Với đặc trưng là sử dụng bản án trong việc giảng dạy và đào tạo luật, nên một trong những điểm ưu việt của phương pháp giảng dạy tình huống là đánh giá và thu hẹp khoảng cách giữa lý luận với thực tiễn và ngược lại.[7]
Ưu điểm kế tiếp là việc áp dụng phương pháp giảng dạy tình huống giúp các sinh viên phát triển được khả năng đọc và phân tích các vụ việc – những kỹ năng cần thiết của luật sư, của người có chuyên môn về pháp luật. Sinh viên học cách phân tích vụ việc theo các yếu tố như sau: các tình tiết tranh luận, vấn đề pháp lý mà tòa án phải giải quyết, các cơ sở để tòa án đưa ra phán quyết và những lý do giải thích cho quyết định của tòa án.[8] Dựa vào các bản án, vụ việc đã được tòa án giải quyết, các sinh viên phân tích và tìm ra những nguyên tắc, quy phạm pháp luật nào đó đã được áp dụng và cách thức tòa án áp dụng những nguyên tắc, quy phạm đó. Trong nghề luật, đây chính là cơ sở nền tảng để các thẩm phán đưa ra bản án. Theo đó, sinh viên củng cố được kiến thức – cốt lõi của các nguyên tắc pháp lý qua chính những vụ việc đã được tòa án giải quyết và có khả năng vận dụng được những nguyên tắc pháp lý đó trong những tình huống khác nhau và từ đó, sinh viên học hỏi và thực hành cách “tư duy giống như một luật sư”.[9]
1. Mục tiêu sử dụng bản án khi thảo luận và giảng dạy phần lý thuyết trong đào tạo luật
Việc giảng dạy và đào tạo luật theo phương pháp sử dụng bản án có khuynh hướng thiên về về hình thức thảo luận, tranh luận tại lớp học hơn là phần giảng dạy lý thuyết. Thậm chí, các lớp học được coi là nơi để tranh luận, bàn thảo về ý nghĩa của các vụ việc của các bản án, không phải là nơi để các sinh viên được tiếp thu bài giảng trực tiếp.[10]
Tuy có đặc thù như vậy, nhưng giảng dạy pháp luật phần lý thuyết hay phần thảo luận đều có cùng mục tiêu chung. Đó là đào tạo hiệu quả, hướng tới kết quả là gắn kết kiến thức của người học giữa lý thuyết và thực tiễn. Bên cạnh mục tiêu chung đó, mục tiêu cụ thể của việc sử dụng bản án trong thảo luận và giảng lý thuyết là khác nhau.
Cụ thể, về mục tiêu chính của phần thảo luận, vai trò của các bản án là nhằm củng cố kiến thức, biết cách áp dụng nguyên tắc pháp lý của vụ việc hoặc tiếp cận những vấn đề tồn tại của thực tiễn như những quan điểm mâu thuẫn, tranh cãi (nếu có) khi các tòa án áp dụng giải quyết các vụ việc có cùng vấn đề pháp luật.
Đơn cử, như Điều 767 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 có quy định:
“1. Thừa kế theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết.
- Quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó”
Theo khoản 1, quy định này được hiểu là vấn đề thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài, dù di sản là động sản hay bất động sản, được giải quyết theo pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch trước khi chết. Tuy nhiên khi đọc khoản 2, thì có thể hiểu là: khoản 1 dành riêng cho trường hợp di sản là động sản, còn di sản là bất động sản thì được giải quyết theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó tọa lạc.
Như vậy, liệu đây có phải là cách hiểu thống nhất của các thẩm phán hay không? Trong thực tiễn khi áp dụng Điều 767 để chọn luật giải quyết cho quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, tòa án vận dụng Điều 767 theo cách hiểu nào? Đây chính là lúc các bản án phát huy tác dụng khi được đưa ra phân tích, tranh luận ở các giờ thảo luận.
Vì vậy, để phục vụ cho việc thảo luận bằng phương pháp vụ việc, giáo viên cần phải tìm tòi và chọn lọc nhiều các bản án giải quyết các vụ việc cùng loại, vấn đề của pháp luật càng khác biệt, mâu thuẫn càng tốt. Nếu còn nhiều bất đồng, tranh luận thì sẽ không hẳn là chỉ có duy nhất một nguyên tắc đúng.[11] Trong quá trình thảo luận, người học nghiên cứu từ các vụ việc của bản án và rút ra những kết luận riêng của mình, được giáo viên định hướng bằng việc đối thoại và thảo luận trong lớp học.[12]
Mục tiêu của việc giảng dạy pháp luật phần lý thuyết là tập trung làm rõ khái niệm, quy định, nguyên tắc của pháp luật và gắn kết giữa lý luận với thực tiễn. Những vấn đề có thể thấy rằng có thể hiểu được khi đề cập đến phần khái niệm, nội dung nhưng khi ứng dụng vào vụ việc trong thực tế thì lại rất khó xác định và áp dụng.
Ví dụ: trong quy định của điểm b, khoản 4 Điều 312 Luật Thương mại năm 2005, có quy định các bên có thể hủy bỏ hợp đồng khi bên kia có sự vi phạm cơ bản. Theo khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 thì vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
Vậy vi phạm cơ bản theo quy định như trên là gì? Mức làm cho bên kia không đạt được mục đích giao kết hợp đồng được xác định như thế nào? Căn cứ vào một số quy định của pháp luật có thể hiểu được là hành vi vi phạm được liệt kê trong khoản 1 Điều 313 như việc một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc giao hàng, cung ứng dịch vụ nếu có thỏa thuận về giao hàng, cung ứng dịch vụ từng phần; khoản 2 Điều 313 là hành vi “một bên không thực hiện nghĩa vụ đối với một lần giao hàng, cung ứng dịch vụ là cơ sở để bên kia kết luận rằng vi phạm cơ bản sẽ xảy ra đối với những lần giao hàng, cung ứng dịch vụ sau đó”. Vậy những hành vi khác là hành vi vi phạm cơ bản có thể liệt kê được không? Chẳng hạn, bên mua không thanh toán tiền cho bên bán, có được xem là hành vi vi phạm cơ bản? Kiến thức về vi phạm cơ bản, hành vi vi phạm cơ bản sẽ hiệu quả hơn khi được minh họa bằng việc áp dụng pháp luật, giải quyết các tranh chấp của các tòa án qua các bản án.
Do mục tiêu như vậy, trong hoạt động giảng dạy lý thuyết bằng các vụ việc, không cần sử dụng quá nhiều bản án (khác với giờ thảo luận thì cần số lượng bản án phong phú hơn nhiều) mà cần chọn lọc một hoặc hai bản án mang tính chất điển hình làm rõ được khía cạnh lý luận, quy định, nội dung của pháp luật khi vận dụng trong thực tiễn.
2. Phân tích cách thức sử dụng bản án trong giảng dạy lý thuyết qua ví dụ cụ thể
Như đã đề cập ở trên, kiến thức lý luận được truyền tải qua hoạt động giảng dạy lý thuyết sẽ được tiếp cận, làm rõ bằng những bản án, án lệ đã được tòa án tuyên. Ví dụ minh họa sau đây sẽ phân tích cách thức sử dụng bản án trong giảng dạy lý thuyết ở nước Anh, một quốc gia đã đào tạo luật bằng phương pháp sử dụng các bản án từ nhiều năm.
Phần bài giảng lý thuyết được chọn để phân tích về việc sử dụng bản án là về các loại điều khoản của hợp đồng theo quy định của luật hợp đồng nước Anh. Có các nội dung chính sau đây của phần lý thuyết lần lượt được trình bày kết hợp với các bản án này: (1) Khái niệm về điều khoản chính yếu (condition), (2) Điều khoản thứ yếu (warranty) và (3) Điều khoản không xác định/điều khoản lưng chừng (inominate/intermediate terms).Trong luật hợp đồng của các nước nói chung và luật hợp đồng của nước Anh nói riêng, không phải mọi điều khoản của hợp đồng đều có ý nghĩa quan trọng như nhau, sẽ có những điều khoản được xem là quan trọng hơn so với các điều khoản khác.[13] Tùy theo việc phân loại, mỗi loại điều khoản sẽ có giá trị pháp lý khác nhau.
a. Điều khoản chính yếu (condition)
“Condition” là điều khoản chính yếu của hợp đồng nên khi vi phạm điều khoản chính yếu này sẽ phá vỡ cơ sở của hợp đồng. Điều khoản đó có thể xuất phát từ sự thỏa thuận của các bên hoặc có thể được pháp luật quy định[14]. Điều khoản chính yếu là gốc rễ của hợp đồng, vi phạm điều khoản này sẽ tước bỏ của bên bị thiệt hại những gì họ được hưởng từ hợp đồng. Hệ quả pháp lý là bên không vi phạm có thể hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.[15]
Nếu chỉ nêu tình huống giả định để minh họa cho khái niệm về điều khoản chính yếu thì ví dụ minh họa được trình bày như sau: Giả sử khi một người ký kết một hợp đồng mua xe ô tô, những điều khoản xác định xe hơi loại gì (Mercedes, Toyota…), mới bao nhiêu phần trăm và giá cả (là điều khoản chính yếu) sẽ quan trọng hơn điều khoản về màu sắc của chiếc xe ô tô đó (trừ khi màu sắc là một phần trong mô tả chiếc xe hơi) sẽ được xem là điều khoản chính yếu (mặc định) theo quy định 13(1) của Luật về Mua bán hàng hóa năm 1979 của nước Anh.[16]
Tình huống giả định giúp người học hình dung được khái niệm về điều khoản chính yếu. Nhưng để hiểu cụ thể hơn và ấn tượng về khái niệm này thì việc sử dụng bản án sau đây khi giảng lý thuyết sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn, khi vụ việc được giải quyết trong bản án là tình huống phát sinh trong thực tế.
Bản án (án lệ) về vụ Poussard v Spiers (1876) 1QBD 410:
Cô Poussard ký hợp đồng biểu diễn opera với vai trò là ca sĩ trong một chuỗi chương trình biểu diễn kéo dài ba tháng. Trước đêm biểu diễn khai mạc, cô Poussard bị bệnh và không thể tham gia trong 4 đêm diễn đầu tiên. Nhà sản xuất Spiers đã thay thế một nữ ca sĩ khác, người này đã cam kết có mặt cho toàn bộ chương trình. Khi cô Poussard bình phục, nhà sản xuất không đồng ý cho cô tiếp tục việc biểu diễn của mình.
Phán quyết của tòa án: Việc không biểu diễn vào đêm mở màn là sự vi phạm điều khoản chính yếu, đêm mở màn là buổi trình diễn quan trọng nhất, sự thu hút và ảnh hưởng công chúng dựa vào buổi biểu diễn này. Việc vi phạm điều khoản chính yếu này đã làm nhà sản xuất được quyền chấm dứt hợp đồng biểu diễn với ca sĩ Poussard.
Bên cạnh khái niệm điều khoản chính yếu, một nội dung cần phải trình bày kế tiếp là phân biệt giữa điều khoản chính yếu với điều kiện để thiết lập hợp đồng (contingent conditions) hay còn có thể hiểu là hợp đồng có điều kiện. Về lý thuyết cần phải xác định rõ ý nghĩa của thuật ngữ điều khoản chính yếu với điều kiện để thiết lập hợp đồng là khác nhau.
Bản án Glaholm v Hays 2 (1841)[17]:
Các bên trong hợp đồng thuê tàu thỏa thuận rằng con tàu phải đi từ nước Anh đến Trieste và sẽ nhận hàng hóa để chuyên chở tại đây: “Tàu phải khởi hành từ nước Anh vào đúng ngày 4 tháng 2 hoặc trước đó”. Con tàu đã khởi hành sau ngày 4 tháng 2 vài ngày, và khi tàu đến Trieste, bên thuê tàu từ chối giao hàng hóa và hủy bỏ hợp đồng.
Phán quyết của Tòa án: Bên thuê tàu được quyền hủy bỏ hợp đồng vì có tồn tại một điều khoản đặc biệt được bên thuê tàu đưa ra là điều kiện của hợp đồng, việc bên cho thuê tàu không thực hiện được thì bên thuê tàu có quyền hủy bỏ hợp đồng thuê tàu và xem như hợp đồng chấm dứt… Tòa án xác định: dự định của các bên trong hợp đồng đã đầy đủ, phải bảo đảm con tàu khởi hành trễ nhất là ngày 4 tháng 2 và đó là điều kiện để ký hợp đồng.
Việc đưa bản án Glaholm v Hays này với các tình tiết và phán quyết của tòa án đã giúp minh họa cho nét khác biệt giữa điều khoản chính yếu là điều khoản quan trọng của hợp đồng thuê tàu và điều kiện đặt ra để hợp đồng thuê tàu được ký kết.
b. Điều khoản thứ yếu (warranty)
“Warranty” là điều khoản thứ yếu (ít quan trọng) đối với mục đích chính của hợp đồng. Khi có sự vi phạm điều khoản này, bên không vi phạm vẫn phải tiếp tục hợp đồng nhưng được yêu cầu bồi thường thiệt hại đã phải gánh chịu.[18]
Như vậy, khác với hệ quả pháp lý của điều khoản chính yếu, việc vi phạm điều khoản thứ yếu không trao quyền hủy bỏ hợp đồng cho bên không vi phạm mà họ chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và vẫn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Để làm rõ phần khái niệm này, một bản án điển hình sau đây được chọn lọc để minh họa:
Bản án (án lệ) về vụ Bettini v Gye (1876) QBD 183
Nam ca sĩ Bettini ký kết một hợp đồng biểu diễn các chương trình của nhà sản xuất trong 3 tháng. Theo hợp đồng, nam ca sĩ phải có mặt ở Luân Đôn tham dự tập luyện 6 ngày trước buổi trình diễn mở màn. Vì bị bệnh nên nam ca sĩ này đã không thể đến được tham gia tập luyện cả 6 ngày theo yêu cầu. Nhà sản xuất đã hủy bỏ hợp đồng với Bettini và ký hợp đồng với ca sĩ khác thay thế cho phần trình diễn của Bettini.
Phán quyết của Tòa án:
Nam ca sĩ Bettini đã vi phạm điều khoản thứ yếu và vì thế nhà sản xuất không được quyền hủy bỏ hợp đồng. Việc không tham gia tập luyện không phải là vấn đề quan trọng nhất của hợp đồng mà chỉ là phần phụ cho mục đích chính của hợp đồng.
Như vậy, với tình tiết được nêu trong bản án, khái niệm về điều khoản thứ yếu đã được làm rõ, đồng thời còn có tác dụng phân biệt giữa điều khoản chính yếu và điều khoản thứ yếu. Cùng một vấn đề, vi phạm hợp đồng biểu diễn, đối với trường hợp của cô Pousard trong vụ Poussard v Spiers là vi phạm điều khoản chính yếu và việc hủy bỏ hợp đồng với cô Pousard là đúng theo quy định của pháp luật; đối với trường hợp của ca sĩ Bettini trong vụ Bettini v Gye lại là vi phạm điều khoản thứ yếu, ca sĩ Bettini có thể phải bồi thường thiệt hại cho nhà sản xuất nhưng nhà sản xuất không được hủy bỏ hợp đồng biểu diễn với ca sĩ này. Sự phân biệt này dựa vào mức độ ảnh hưởng đến mục đích chính của hợp đồng.
Trong phần lý thuyết về khái niệm điều khoản thứ yếu, cần lưu ý rằng cùng thuật ngữ “warranty” nhưng ý nghĩa có thể khác. Trong luật hợp đồng của nước Anh và các quốc gia theo thông luật, ở một ngữ cảnh nhất định, “warranty” không phải là điều khoản thứ yếu mà được hiểu là một sự bảo đảm hoặc một lời hứa bảo đảm của bên này với bên kia trong hợp đồng.[19] Đơn cử như sự bảo đảm được quy định trong mua bán hàng hóa thường là hàng hóa mới được bán với mặc định (ngầm) là giống như hàng đã quảng cáo. Hàng hóa đã qua sử dụng sẽ được bán với tình trạng hiện có (as is) và không có bảo đảm.[20]
Bên cạnh đó thuật ngữ “warranty” còn có thể được hiểu là việc bảo hiểm được điều chỉnh bởi đạo luật về bảo hiểm (đơn cử như Luật Bảo hiểm hàng hải năm 1906) và án lệ (điển hình như: Bank of Nova Scotia v Hellenic Mutual War Risks Association);[21]
c. Điều khoản không xác định/điều khoản lưng chừng (inominate/intermediate terms)
Trường hợp không phân loại được một điều khoản trong hợp đồng là điều khoản chính yếu hay điều khoản thứ yếu, tòa án sẽ xác định điều khoản đó là điều khoản không xác định hay còn gọi là điều khoản lưng chừng (innominate/intermediate term).[22] Tòa án sẽ kết luận một điều khoản vi phạm đó là điều khoản chính yếu hay điều khoản thứ yếu nếu ý chí của các bên khi ký kết hợp đồng đã thể hiện rõ ràng. Nếu không rõ hệ quả của việc vi phạm điều khoản này được các bên dự định như thế nào, tòa án xác định là điều khoản không xác định.[23]
Về hệ quả pháp lý của điều khoản không xác định, tòa án xem xét mức độ ảnh hưởng của việc vi phạm điều khoản đó có tước bỏ của bên không vi phạm phần lớn các lợi ích từ hợp đồng hay không để quyết định quyền được hủy bỏ hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại của bên không vi phạm. Nếu có, thì tòa án bằng quyền lực của mình kết luận vi phạm điều khoản không xác định đó là vi phạm điều khoản chính yếu và bên vi phạm phải gánh chịu hậu quả pháp lý dành cho loại vi phạm này.[24]
Phần lý thuyết về điều khoản không xác định khá trừu tượng, sử dụng bản án trong trường hợp này giúp người học có hình dung cụ thể hơn về loại điều khoản này:
Vụ việc về Hong Kong Fir Shipping v Kawasaki Kisen Kaisha [1962] 2 QB 26
Bị đơn ký hợp đồng thuê tàu trong 2 năm. Trong hợp đồng các bên có thỏa thuận điều khoản là con tàu phải có điều kiện tốt để đi biển trong suốt giai đoạn cho thuê. Do máy móc của con tàu và khả năng yếu kém của các thợ máy nên điều kiện đi biển của tàu ngày càng xấu đi. Kết quả là con tàu không sử dụng được trong 20 tuần để tiến hành sửa chữa. Bị đơn coi đây là sự vi phạm điều khoản chính yếu và vì vậy đã đơn phương chấm dứt hợp đồng. Nguyên đơn đã khởi kiện vì cho rằng việc chấm dứt hợp đồng là sai vì điều khoản về khả năng đi biển không phải là điều khoản chính yếu của hợp đồng.
Phán quyết của Tòa án:
Bị đơn phải chịu trách nhiệm pháp lý do đơn phương chấm dứt hợp đồng sai trái. Tòa án đã xác định điều khoản về khả năng đi biển của con tàu là điều khoản không xác định. Khác hơn việc tìm kiếm để phân loại điều khoản đó là điều khoản chính yếu hay điều khoản thứ yếu, tòa án tìm kiếm ảnh hưởng của vi phạm đó và đặt câu hỏi hành vi vi phạm đó có tước bỏ của bên bên không vi phạm toàn bộ lợi ích của họ trong hợp đồng hay không? Chỉ khi có câu trả lời xác định rằng có sự tước bỏ này, tòa án kết luận đây là vi phạm điều khoản chính yếu. Chỉ mất khoảng thời gian là 20 tuần trong 2 năm của hợp đồng thuê tàu biển thì không được coi là tước bỏ nhiều lợi ích của bị đơn và vì vậy bị đơn không có quyền chấm dứt hợp đồng.
Cần lưu ý là đối với điều khoản không xác định, người học vẫn cần phải quyết định xem điều khoản không xác định đó, cuối cùng là điều khoản chính yếu hay điều khoản thứ yếu. Để xác định cần thực hiện bước kiểm tra về mức độ ảnh hưởng về lợi ích của bên không vi phạm trong hợp đồng. Mức độ ảnh hưởng lớn hay nhỏ về lợi ích của bên không vi phạm sẽ là thước đo để kết luận điều khoản không xác định nhất định là điều khoản yếu hoặc thứ yếu. Sự trừu tượng của phần lý thuyết này sáng tỏ hơn khi có sự phân tích bản án điển hình nêu trên.
3. Kết luận và kiến nghị
Không thể phủ nhận việc sử dụng bản án để giảng dạy luật phần lý thuyết trong phương pháp giảng dạy bằng vụ việc là hiệu quả giúp khái niệm, quy định, nội dung cụ thể của điều khoản luật được trình bày rõ ràng hơn và có mối liên hệ, gắn kết với thực tiễn. Người học không chỉ hiểu được những kiến thức pháp luật thuần túy về lý thuyết mà còn học được cách vận dụng và áp dụng những quy định đó qua học hỏi và đánh giá cách thức tòa án ra phán quyết khi giải quyết các vụ tranh chấp. Bên cạnh đó, đào tạo luật bằng việc sử dụng bản án khi giảng dạy phần lý thuyết thật sự thu hẹp được khoảng cách giữa lý thuyết và thực tiễn.
Tại Việt Nam, trong đào tạo luật với phương pháp diễn giảng truyền thống, khi giảng giải phần lý thuyết chúng ta vẫn thường minh họa những kiến thức lý luận bằng những ví dụ, tình huống giả định. Việc sử dụng tình huống giả định này vẫn có những hiệu quả nhất định, đơn cử như giúp người học hình dung được những nội dung trừu tượng trong khoa học pháp lý. Với phương pháp truyền thống như vậy, việc đào tạo luật tại Việt Nam vẫn bị đánh giá là xa rời thực tiễn. Vì vậy, để có hiệu quả tốt hơn trong đào tạo pháp luật, phương pháp giảng dạy bằng các vụ việc được học hỏi từ các nước như Hoa Kỳ, Anh, Pháp… nên được vận dụng.
Để có thể áp dụng được phương pháp giảng dạy bằng vụ việc vào đào tạo luật, các giảng viên cần có phương tiện trong tay, đó chính là sách vụ việc.[25] Những sách vụ việc đó là kết quả của việc đầu tư thời gian, thu thập, tìm kiếm và chọn lọc các bản án điển hình trong một lĩnh vực pháp luật cụ thể để phục vụ cho công tác giảng dạy lý thuyết.
CHÚ THÍCH
[1] .http://encyclopedia.thefreedictionary.com/Casebook+method accessed at 7th May, 2013; Maggie Breslin and Richard Buchanan, “On the Case Study Method of Research and Teaching in Design”, Massachusetts Institute of Technology, volume 24, Number 1, 2008, p 36.
[2] Đỗ Thị Mai Hạnh, “Việc sử dụng và định hướng xây dựng casebook trong giảng dạy luật”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 5, 2013, tr. 62.
[3] Maggie Breslin and Richard Buchanan, chú thích số 1, 36.
[4].http://en.wikipedia.org/wiki/Casebook_method, 1/8/2011.
[5].http://www.hartpub.co.uk/BookDetails.aspx?ISBN=9781841137506.
[6].http://www.casebooks.eu/conflictOfLaws/background/.
[7] Maggie Breslin and Richard Buchanan, chú thích số 1, 36.
[8].http://legal-dictionary.thefreedictionary.com/Case+Method, cập nhật ngày 2.11.2014.
[9] Wayne L. Anderson and Marilyn J. Headrick, The Legal Profession: Is it for you? (1996) 83.
[10].http://en.wikipedia.org/wiki/Casebook_method, cập nhật ngày 2.11.2014.
[11].http://en.wikipedia.org/wiki/Casebook_method, tra cứu 8/1/ 2011.
[12] Maggie Breslin and Richard Buchanan, chú thích số 1, 36.
[13] Ewan Mckendrick, Contract Law (2013) 177.
[14] BPP Learning Media, 2011 Syllabus: Fundamentals of Ethics, Corporatte Governance and Business Law (2011) 108.
[15] Sir Jack Beatson, Andrew Burrows an John Cartwright, Anson’s Law of Contract (2010) 140.
[16] Điều 13(1) của Luật về Mua bán hàng hóa năm 1979 của nước Anh: “Hàng hóa mua bán phải phù hợp với mô tả…” là điều khoản chính yếu (condition).
[17] Xem thêm http://swarb.co.uk/glaholm-v-hays-1874/; Beatson, Burrows and Cartwright, chú thích số 15, 141.
[18] Xem Ewan Mckendrick, chú thích số 13, 177; Beatson, Burrows and Cartwright, chú thích số 15, 143.
[19] Martin Hogg (2011). Promises and Contract Law: Comparative Perspectives, 48.
[20] http://en.wikipedia.org/wiki/Warranty , cập nhật ngày 23/12/2014.
[21] Xem Beatson, Burrows and Cartwright, chú thích số 15, 140.
[22] Xem Beatson, Burrows and Cartwright, chú thích số 15, 146-147.
[23] Xem BPP Learning Media, chú thích số 14,110.
[24] Xem Beatson, Burrows and Cartwright, chú thích số 15, 145-146; Xem BPP Learning Media, chú thích số 14, 111; Ewan Mckendrick, chú thích số 13, 183.
[25] Xem Anderson and Headrick, ghi chú số 2, 83.
Tác giả: Đỗ Thị Mai Hạnh – TS. Luật học, Trưởng bộ môn Tư pháp quốc tế – Luật So sánh, Khoa Luật Quốc tế, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2015 (89)/2015 – 2015, Trang 74-80
Like Fanpage Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời