Mục lục
Sử dụng bản án trong giảng dạy – Góc nhìn từ người làm thực tiễn: Để giảng dạy bản án, các giảng viên có một số nhiệm vụ chính là tìm các bản án có liên quan, thu thập và hệ thống hóa các bản án và rèn luyện cho sinh viên cách học bằng cách nghiên cứu bản án…
- Kinh nghiệm về sử dụng bản án, quyết định của Tòa án trong đào tạo nghề luật – PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng
- Sử dụng bản án của Tòa án trong giảng dạy thảo luận – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
- Việc sử dụng quyết định của Tòa án trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy tại Cộng hòa Pháp – TS. Pierre Macqueron
- Tổng quan phương pháp giảng dạy qua án trong chuyên ngành luật từ các nước trong hệ thống thông luật và dân luật – TS. Phan Nhật Thanh
- Thực trạng và ý nghĩa của việc sử dụng bản án trong công tác đào tạo luật ở Việt Nam – TS. Bùi Xuân Hải
- Sử dụng bản án trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Luật TP. HCM – những vấn đề nhìn từ góc độ đảm bảo chất lượng – ThS. Vũ Duy Cương – ThS. Phạm Đình Phú
- Sử dụng bản án để xây dựng tình huống trong đào tạo luật – PGS.TS. Phan Huy Hồng
- Bàn về việc sử dụng bản án làm chất liệu thiết kế bài giảng môn học chuyên ngành luật – TS. Phan Thị Thành Dương
- Sơ lược về sử dụng bản án trong công tác nghiên cứu khoa học – PGS.TS. Trần Thị Thùy Dương
- Sử dụng bản án trong giảng dạy pháp luật phần lý thuyết – kinh nghiệm qua một trường hợp ở Anh – TS. Đỗ Thị Mai Hạnh
TỪ KHÓA: Bản án,
TÓM TẮT
Việc giảng dạy án lệ là một nhu cầu cần thiết tại các trường đại học luật ở Việt Nam vì án lệ là một nguồn quan trọng giúp sinh viên hiểu cách thức Tòa án áp dụng luật trên thực tế đối với các tình huống cụ thể trong khi luật thành văn chưa quy định đầy đủ. Để giảng dạy bản án, các giảng viên có một số nhiệm vụ chính là tìm các bản án có liên quan, thu thập và hệ thống hóa các bản án và rèn luyện cho sinh viên cách học bằng cách nghiên cứu bản án.
Việc tiếp cận và phân tích bản án là một nhu cầu cần thiết đối với sinh viên luật, giúp các em hiểu việc áp dụng luật từ bản án và có cái nhìn thực tế khi giải quyết các tình huống pháp lý. Bài viết này trước tiên giới thiệu sơ lược vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật và chương trình đào tạo sinh viên luật của các quốc gia theo hệ thống luật Anh – Mỹ cũng như vai trò của án lệ và thực trạng các bản án tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, bài viết trình bày nhu cầu giảng dạy các bản án và đề xuất cách thức giảng dạy bản án trong trường luật tại Việt Nam.
1. Giới thiệu sơ lược về án lệ tại các nước theo hệ thống luật Anh – Mỹ và Việt Nam
Tại các quốc gia phát triển nơi mà pháp luật được xây dựng trên nền tảng hệ thống luật Anh – Mỹ như Anh, Mỹ, Úc và Singapore, từ lâu án lệ đã được xem là một nguồn quan trọng của pháp luật. Án lệ giúp hệ thống pháp luật liên tục phát triển và làm rõ những vấn đề còn thiếu sót hay chưa rõ ràng trong luật thành văn. Do không phải bao giờ luật thành văn cũng quy định được mọi vấn đề phát sinh trên thực tế, án lệ là một nguồn quan trọng của pháp luật để bổ sung các quy định của luật thành văn. Đặc biệt, án lệ giúp người hành nghề luật có thể hiểu được cách Tòa án áp dụng luật trong các vụ việc tương tự. Người hành nghề luật cần nghiên cứu cả luật thành văn và án lệ để có cách hiểu đúng về việc áp dụng luật.
Cùng với vai trò quan trọng của án lệ, việc giảng dạy bản án trong trường luật là rất cần thiết. Việc làm này có mục đích chủ yếu là giúp sinh viên hiểu được các nguyên tắc pháp lý của các ngành luật cơ bản, quá trình hình thành và phát triển của các nguyên tắc này và ở một mức độ nhất định, các vấn đề pháp lý phát sinh từ các bản án và cách giải quyết. Đây là phương pháp giảng dạy luật bằng cách phân tích các bản án với các dữ kiện thực tế và khuyến khích sinh viên chủ động tư duy thông qua việc trả lời và tranh luận các câu hỏi trên lớp, thay vì tiếp thu một cách thụ động bài giảng của giáo viên và giáo trình.
Việc sử dụng bản án trong giảng dạy gắn liền với tên tuổi giáo sư Christopher Columbus Langdell của Trường luật Harvard. Ông bắt đầu áp dụng phương pháp giảng dạy bản án ở Trường luật Harvard vào năm 1871. Ban đầu ông vấp phải sự phản đối quyết liệt từ nhiều đồng nghiệp lẫn sinh viên vì việc giảng dạy truyền thống thông qua tiếp thu một cách thụ động bài giảng của giáo viên và giáo trình đã được thực hiện trong một thời gian dài. Tuy nhiên, qua thời gian, phương pháp của ông dần chứng minh tính hiệu quả vì các sinh viên do ông đào tạo sau khi ra trường có năng lực thực hành luật vượt trội so với sinh viên các trường luật khác. Đến đầu những năm 1900, hầu hết các trường luật trên khắp nước Mỹ đều áp dụng phương pháp giảng dạy của giáo sư Langdell và phương pháp này vẫn còn phổ biến cho đến ngày nay.
Việc giảng dạy án lệ đặc biệt giúp sinh viên hiểu được quá trình thẩm phán đi đến quyết định và ra bản án thông qua các phân tích pháp lý trình bày trong bản án. Ngoài ra, bản án cũng trình bày các ý kiến khác nhau của các bên, mang đến cho sinh viên các cách giải thích luật và nhìn nhận vấn đề khác nhau đối với một vấn đề pháp lý. Mặc dù có nhiều điểm ưu việt như vậy, việc giảng dạy các bản án trong trường luật tại Mỹ cũng chịu những sự phê phán nhất định. Đứng từ góc độ học thuật, việc giảng dạy các bản án sẽ khuyến khích sinh viên áp dụng luật trong các vụ việc thực tế với số lượng có hạn. Cách tiếp cận vấn đề của sinh viên sẽ chỉ giới hạn ở các vụ việc được giảng dạy và hạn chế cách nhìn từ nhiều góc độ của sinh viên. Ngoài ra, sinh viên có xu hướng quá tập trung vào các lập luận của thẩm phán để tìm hiểu tính đúng sai trong các lập luận của thẩm phán và mất tập trung vào việc tìm ra các nguyên tắc pháp lý cơ bản được khái quát hóa từ các vụ việc trên. Đứng từ góc độ của người thực hành luật, nếu việc giảng dạy bản án tập trung chủ yếu vào việc giúp sinh viên hiểu được các nguyên tắc pháp lý của các ngành luật cơ bản mà kém tập trung vào việc tìm ra các vấn đề pháp lý phát sinh từ các bản án và cách giải quyết các vấn đề pháp lý đó thì cũng không giúp được sinh viên nhiều khi bắt đầu hành nghề luật.
Ở Việt Nam, theo quan điểm truyền thống, án lệ không được công nhận là một nguồn của pháp luật. Việc công nhận án lệ đã có bước phát triển ban đầu khi Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 (sẽ bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1/ 6/ 2015) quy định về việc Hội đồng thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm hệ thống hóa và công bố các bản án có tính chuẩn mực để phát triển thành án lệ. Cụ thể, Hội đồng thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ “lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”[1]. Như vậy, về lâu về dài có thể hy vọng là pháp luật Việt Nam sẽ tiến đến thừa nhận án lệ như là một nguồn của pháp luật.
Việc tiếp cận và sử dụng các bản án ở Việt Nam còn một số khó khăn. Trước hết, tính đến thời điểm hiện tại, các bản án là nguồn tài liệu không công khai và có thể chúng ta phải đợi khá lâu cho đến khi Hội đồng thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao thu thập, hệ thống hóa và công khai một số lượng tương đối đầy đủ các bản án có thể sử dụng như án lệ. Thêm vào đó, các bản án ở Việt Nam chủ yếu được trình bày một cách tóm tắt về tình tiết, quy định pháp luật áp dụng và kết luận, mà không phản ánh toàn bộ quá trình tố tụng (bao gồm cả quá trình tranh luận tại tòa án là nơi pháp luật được áp dụng và giải thích chủ yếu). Các tòa án của Việt Nam chủ yếu chỉ đơn thuần ghi nhận và áp dụng trực tiếp các từ ngữ sử dụng trong quy định pháp luật áp dụng mà không có bất kỳ giải thích nào thêm. Do vậy, việc sử dụng án lệ để dạy trong trường luật tại Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn và đòi hỏi giáo viên cần nỗ lực hơn rất nhiều đồng nghiệp của mình tại các nước theo hệ thống luật Anh – Mỹ.
2. Nhu cầu dạy bản án trong trường luật tại Việt Nam
Tuy hoàn cảnh xã hội khác nhau, hệ thống pháp luật khác nhau nhưng việc cho sinh viên làm quen với việc học án lệ ở các quốc gia đều mang lại lợi ích thiết thực và rõ ràng cho nền giáo dục nhân lực luật. Sự ra đời của quy định tại Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 tiến tới việc công nhận án lệ khiến cho yêu cầu giảng dạy bản án trong trường luật tại Việt Nam trở nên cần thiết và cần được tiến hành ngay. Ngoài ra, các đặc tính của mục đích và môi trường học tập tại trường luật ở Việt Nam cũng làm nhu cầu này ngày càng trở nên bức thiết hơn, đặc biệt là để đáp ứng nhu cầu làm việc tại công ty luật.
Dưới góc độ là một luật sư hành nghề tại một công ty luật, tác giả nhận thấy có sự khác biệt cơ bản giữa môi trường học tại trường luật và môi trường làm việc tại công ty luật ở Việt Nam. Về cơ bản, quy trình học luật thông qua tình huống ở trường luật chủ yếu gồm ba bước:
(i) Đọc hiểu tình huống;
(ii) Tìm hiểu và phân tích quy định pháp luật có liên quan;
(iii) Nhận định vấn đề đúng hay sai trong tình huống.
Trong khi đó, quy trình làm việc trong công ty luật bao gồm năm bước sau:
(i) Đọc hiểu tình huống;
(ii) Tìm hiểu vấn đề pháp lý phát sinh từ tình huống;
(iii) Tìm hiểu sự kiện và giả định liên quan đến vấn đề pháp lý;
(iv) Tìm hiểu và phân tích quy định pháp luật có liên quan;
(v) Áp dụng pháp luật vào tình huống để đưa ra kết quả là cách thức giải quyết thuyết phục và ít rủi ro nhất cho khách hàng.
Vì mục đích và môi trường học tập và làm việc khác nhau, quá trình diễn biến và kết quả đạt được của việc áp dụng luật vào tình huống được đưa ra của sinh viên và luật sư hành nghề cũng khác nhau. Cụ thể, đối với môi trường đại học, mục đích của việc “học” là lấy kiến thức cơ bản về pháp luật, nhận định được tình huống có phù hợp hay không với quy định của pháp luật; thêm vào đó, các giảng viên cũng tập trung vào việc giảng để hiểu để cung cấp nền tảng quy định pháp luật cho sinh viên.
Đối với môi trường làm việc tại công ty luật, mục đích của việc “làm” không chỉ là lý thuyết đúng – sai về luật mà là tình huống làm phát sinh vấn đề pháp lý gì, sự kiện nào có liên quan đến tình huống và nếu sự kiện không rõ ràng thì cần giả định gì liên quan đến sự kiện đó, có bao nhiêu cách để giải quyết vấn đề pháp lý và cách nào có lợi nhất đối với khách hàng. Lúc này câu hỏi đặt ra không còn là câu hỏi đóng với một đáp án đúng hay sai mà sẽ là câu hỏi mở với nhiều đáp án và nhiệm vụ của người luật sư là phải tìm ra đáp án phù hợp và tối ưu nhất cho khách hàng của mình. Vì sự khác biệt khá lớn như vậy, một sinh viên mới ra trường khó có thể hoàn thành tốt công việc của mình nếu không được tích lũy trước đó một số lượng nhất định kiến thức và kỹ năng gắn với các vấn đề thực tiễn thay vì chỉ biết đến các vấn đề lý thuyết. Việc cho sinh viên làm quen với các bản án ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường sẽ là một trong các biện pháp cần thiết để tích lũy dần các kỹ năng và kiến thức thực tế đó đồng thời rút ngắn khoảng cách giữa sinh viên với các luật sư hành nghề.
Thứ nhất, bản án bao gồm những tình huống phát sinh trên thực tế, rõ ràng, cụ thể và có tính thiết thực mà các cá nhân, cơ quan và tổ chức có thể dễ dàng gặp phải. Việc đọc nhiều bản án sẽ giúp sinh viên nhận thức được các vấn đề pháp lý thường xuyên xảy ra và tự đúc kết cho mình kinh nghiệm xác định vấn đề pháp lý. Đây là kỹ năng không thể thiếu trong quá trình làm việc sau này.
Ví dụ, khi phân tích một tranh chấp liên quan đến một giao dịch mua bán xưởng sản xuất, các vấn đề pháp lý có liên quan đến bên bán có thể bao gồm:
– Bên bán có quyền sở hữu với xưởng sản xuất không?
– Các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu với xưởng sản xuất là gì? (ví dụ, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất…)
– Có bên thứ ba nào có quyền hạn chế bên bán chuyển nhượng quyền sở hữu không? (ví dụ trong trường hợp một hoặc một số bộ phận cấu thành nhà xưởng (đất, công trình, trang thiết bị…) là tài sản đảm bảo trong giao dịch cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh hoặc bên bán vẫn còn nợ tiền nhà thầu xây dựng và nhà thầu xây dựng có thể có quyền hạn chế chuyển nhượng)
– Việc chuyển nhượng có cần được sự chấp thuận của bất kỳ cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc bên thứ ba nào không?
– Có bất kỳ hạn chế nào khác áp dụng cho việc chuyển nhượng tài sản là xưởng sản xuất hay không? (ví dụ liên quan đến một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện mà pháp luật quy định bên nhận chuyển nhượng phải đáp ứng được các điều kiện nhất định mới có thể nhận chuyển nhượng)
Nếu chỉ học riêng ở trường luật về luật áp dụng đối với việc chuyển nhượng tài sản, sinh viên thường chỉ chú ý vào các vấn đề có tính chất thủ tục liên quan đến việc chuyển nhượng tài sản (ví dụ, hình thức hợp đồng chuyển nhượng, thủ tục công chứng và đăng ký quyền sở hữu) và sẽ khó thể tìm ra các vấn đề pháp lý kể trên để đào sâu nghiên cứu.
Thứ hai, không chỉ đưa ra kết luận cho bản án, người giải quyết (thẩm phán, kiểm soát viên và luật sư) trước đó phải tìm ra được vấn đề pháp lý có liên quan và trên cơ sở các vấn đề pháp lý có liên quan, xác định các sự kiện có liên quan đến vấn đề pháp lý. Việc tìm hiểu bản án giúp sinh viên xác định các sự kiện liên quan đến vấn đề pháp lý thông qua việc tìm hiểu cụ thể từng tình tiết (dù quan trọng hay không) của vụ việc. Nếu các sự kiện không rõ ràng thì cần giả định như thế nào để đưa ra phân tích pháp lý. Đây cũng là kỹ năng không thể thiếu trong quá trình làm việc sau này.
Ví dụ, trong giao dịch mua bán xưởng sản xuất ở trên, nếu bên bán là cá nhân, để xác định bên bán có toàn quyền sở hữu với xưởng sản xuất không thì một trong các sự kiện có liên quan là tình trạng hôn nhân của bên bán. Nếu bản án không trình bày gì về vấn đề này thì giả định có liên quan là bên bán đang trong tình trạng độc thân nên sẽ có toàn quyền sở hữu đối với xưởng sản xuất đó. Vì nếu bên bán đang trong tình trạng hôn nhân thì có thể phải có chấp thuận của vợ hoặc chồng của bên bán trước khi thực hiện giao dịch mua bán.
Việc tìm ra các sự kiện và giả định có liên quan trong một vụ việc cụ thể trên cơ sở các vấn đề pháp lý phát sinh là một kỹ năng rất quan trọng của người hành nghề luật để có thể hiểu việc áp dụng luật trong các tình huống cụ thể và khi phát sinh các tình huống tương tự như vậy thì người hành nghề luật biết mình cần tìm hiểu các sự kiện và giả định nào.
Thứ ba, việc áp dụng luật trong bản án được chọn lọc thông qua quá trình tranh luận trên tòa án giữa thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư và các đương sự. Pháp luật không phải lúc nào cũng rõ ràng, đặc biệt là trong bối cảnh biến động không ngừng của xã hội. Khi đặt vào một sự việc cụ thể, sự đan xen của các tình tiết cũng như các quy phạm hướng dẫn luôn dẫn đến sự khó khăn trong việc xác định cách hiểu và áp dụng luật. Các bản án lúc này sẽ được xem như một nguồn tài liệu tham khảo vô cùng quý giá để người đọc tiếp thu quan điểm của các bên có liên quan trong quá trình tố tụng.
Ví dụ, trong giao dịch mua bán xưởng sản xuất ở trên, bên mua có thể lý luận là có quyền sở hữu với xưởng sản xuất và do vậy có thể chuyển nhượng. Trong khi đó, bên bán có thể lý luận là mặc dù bên mua có quyền sở hữu với xưởng sản xuất, bên mua bị hạn chế chuyển nhượng vì đã thế chấp xưởng sản xuất cho ngân hàng và vẫn còn nợ tiền nhà thầu xây dựng. Do vậy, bên mua bị hạn chế chuyển nhượng và việc vẫn chuyển nhượng cho bên bán là không được phép và vi phạm pháp luật.
Khi được làm quen với quan điểm của các bên có liên quan trong quá trình tố tụng, sinh viên sẽ có cái nhìn đa chiều hơn về một vấn đề pháp lý tưởng chừng đơn giản và không có nhiều vấn đề để xem xét. Trong ví dụ trên, luật sư sẽ cần tìm hiểu xem liệu xưởng sản xuất có bị sử dụng làm tài sản bảo đảm chưa và có bất kỳ bên thứ ba nào có quyền đối với tài sản đó hay không.
Thứ tư, bản án phản ánh tư duy của cơ quan xét xử qua các thời kỳ, từ đó phản ánh một phần sự thay đổi đường lối chính sách của nhà nước và quan điểm của các nhà hành pháp. Sự thay đổi này đồng thời phản ánh sự thay đổi của các rủi ro tương ứng trong môi trường kinh doanh, nơi mà các luật sư hành nghề chủ yếu.
Ví dụ, trước khi có vụ xả thải vi phạm pháp luật môi trường của công ty sản xuất bột ngọt Vedan năm 2008 ở sông Đồng Nai thì hầu như vấn đề về luật môi trường không được chú ý tại Việt Nam. Mặc dù Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội ban hành năm 2005 nhưng hầu như không ai quan tâm đến các quy định của Luật Bảo vệ môi trường vì các quy định đó hầu như không được áp dụng tuân thủ nghiêm túc trên thực tế và các cơ quan quản lý nhà nước không chú ý đến việc cưỡng chế tuân thủ pháp luật. Vụ việc Vedan xả thải ra sông Đồng Nai đã gây phẫn nộ trong xã hội, được dư luận quan tâm và bị xử lý nghiêm túc bởi cơ quan quản lý nhà nước. Sau vụ việc này, các vấn đề về môi trường đã trở thành một vấn đề lớn trong mọi giao dịch thương mại tại Việt Nam.
Thứ năm, việc đọc án lệ thường xuyên sẽ giúp sinh viên làm quen với các thuật ngữ pháp lý được sử dụng bởi cơ quan xét xử và các bên tham gia tố tụng. Việc làm quen này không chỉ giúp tăng vốn từ ngữ, độ chính xác, chuyên nghiệp của từ ngữ được sử dụng mà còn giúp các sinh viên hiểu biết thêm nhiều khái niệm pháp lý mới và vận dụng tốt các thuật ngữ này cho quá trình hành nghề luật về sau.
Thứ sáu, một điều không thể phủ nhận là việc học thông qua án lệ giúp các sinh viên tập trung, hứng thú và ghi nhớ nhiều điều hơn trong quá trình học tập. Các em có một tình huống cụ thể, rõ ràng, có những nhân vật thực tế, có vấn đề pháp lý đi sát với cuộc sống để nghiên cứu và giải quyết thay vì phải đọc và tìm hiểu rất nhiều vấn đề khác nhau, không có đích đến và không rút ra được một kết luận đáng lưu ý nào.
Thứ bảy, việc học các bản án giúp sinh viên ít bỡ ngỡ khi làm việc trong môi trường công ty luật. Mỗi công ty luật thường có kho dữ liệu riêng về các bản án của công ty mình và việc xem xét các bản án là một phần của quá trình nghiên cứu và phân tích vấn đề pháp lý để tìm ra giải pháp. Nếu đã được làm quen trước đó trong môi trường đại học, các luật sư trẻ là sinh viên mới ra trường sẽ không phải bỡ ngỡ, tiết kiệm được rất nhiều thời gian và dễ dàng xác định được trọng tâm, đối tượng cần thiết khi đọc, hiểu và áp dụng các bản án trong công việc một cách hợp lý hơn.
3. Đề xuất cách thức dạy bản án trong trường luật tại Việt Nam
Các đặc thù ở Việt Nam về khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng các bản án ở Việt Nam làm việc sử dụng án lệ để dạy trong trường luật tại Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Đứng ở góc độ giảng viên, việc chuẩn bị cho quá trình giảng dạy bản án đóng vai trò quyết định và khó khăn nhất. Giảng viên sẽ có ba nhiệm vụ cơ bản sau:
(i) Tìm các bản án tiêu chuẩn có liên quan;
(ii) Tập hợp và hệ thống hóa các bản án này theo từng ngành luật và theo từng vấn đề pháp lý; và
(iii) Dạy sinh viên cách đọc bản án.
Ở hai nhiệm vụ đầu tiên, người giảng viên sẽ tốn rất nhiều thời gian để tìm, đọc, hiểu và hệ thống hóa các bản án. Nếu không, việc giảng dạy án lệ về cơ bản sẽ rất khó thực hiện trừ khi Hội đồng thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao làm được việc này. Về bản chất, giảng viên phải làm công việc của Hội đồng thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao trong lĩnh vực mà mình giảng dạy.
Nếu đã vượt qua khó khăn ở hai nhiệm vụ đầu tiên, nhiệm vụ thứ ba cũng sẽ quan trọng và khó khăn không kém vì đây là một hướng tiếp cận mới trong cách dạy học. Việc giảng dạy sinh viên cách đọc bản án đòi hỏi người giảng viên không chỉ có kiến thức rộng về luật mà còn phải có kinh nghiệm trong việc đọc, hiểu bản án, có khả năng tìm ra vấn đề pháp lý, biết cách phân tích luật phù hợp và có cái nhìn bao quát về tư duy xét xử. Giảng viên cũng cần chọn lọc vấn đề thảo luận, định hướng và kích thích tư duy và khả năng phản biện của sinh viên.
Khi dạy cho sinh viên cách đọc bản án, đứng từ góc độ một luật sư hành nghề trong công ty luật, tác giả cho rằng các bước cụ thể mà giảng viên cần làm là:
Bước 1: Giảng viên gợi ý và hướng dẫn sinh viên tìm ra các vấn đề pháp lý trong vụ việc có liên quan;
Bước 2: Trên cơ sở tìm ra các vấn đề pháp lý có liên quan, giảng viên gợi ý và hướng dẫn sinh viên tìm ra các sự kiện có liên quan. Nếu các sự kiện có liên quan không có sẵn trong bản án, giảng viên khơi gợi ý và hướng dẫn sinh viên tìm ra các giả định về sự kiện có liên quan để thẩm phán đưa ra quyết định tại bản án;
Bước 3: Giảng viên gợi ý và hướng dẫn sinh viên tìm ra các văn bản pháp luật có liên quan;
Bước 4: Giảng viên gợi ý và hướng dẫn sinh viên tìm ra các quy định được áp dụng trong bản án và tranh luận về các ý kiến khác nhau được trình bày trong bản án. Giảng viên khơi gợi và hướng dẫn sinh viên tìm ra các cách trình bày, phân tích pháp lý tốt nhất đứng từ quan điểm của các bên khác nhau tham gia quá trình tố tụng;
Bước 5: Giảng viên gợi ý và hướng dẫn sinh viên khái quát hóa các phân tích pháp lý và tìm ra các nguyên tắc pháp lý cơ bản (nếu có) được áp dụng trong bản án.
Trong toàn bộ quá trình trên, giảng viên định hướng, kích thích tư duy và khả năng phản biện của sinh viên. Mục đích không phải là tìm ra câu hỏi đúng hay sai mà để sinh viên có cái nhìn đa chiều và tổng hợp về các vấn đề pháp lý, các sự kiện và giả định có liên quan, các quy định pháp luật và việc áp dụng luật để xử lý các vấn đề pháp lý. Ngoài ra, giảng viên cũng không nên tập trung vào việc “phê phán” các quyết định của thẩm phán dẫn đến sinh viên có góc nhìn tiêu cực về hệ thống pháp luật và Tòa án Việt Nam.
Theo quan điểm cá nhân của tác giả, câu hỏi đặt ra không còn là có nên và khi nào bắt đầu dạy bản án tại trường luật. Việc giảng dạy luật bằng bản án là cần thiết và cần được bắt đầu càng sớm càng tốt một cách có hệ thống. Việc đưa án lệ vào giảng dạy đòi hỏi sự quyết tâm của Ban giám hiệu, giảng viên, sinh viên và sự hợp tác, hỗ trợ từ cơ quan có liên quan trong quá trình chọn lọc và cung cấp bản án. Với tình hình hệ thống bản án và thói quen dạy – học tại Việt Nam hiện tại, quá trình này có lẽ sẽ cần rất nhiều thời gian mới có thể mang lại hiệu quả và được nhân rộng trên toàn quốc.
CHÚ THÍCH
[1] Điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
Tác giả: Trương Nhật Quang – Luật sư điều hành Công ty luật TNHH YKVN
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2015 (89)/2015 – 2015, Trang 20-25
Like Fanpage Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời