Mục lục
Sử dụng bản án của Tòa án trong giảng dạy thảo luận: Sử dụng bản án trong giảng dạy là cần thiết cho chất lượng đào tạo luật. Bài viết cho biết nên sử dụng những bản án nào cũng như cách thức khai thác bản án cho thảo luận…
- Kinh nghiệm về sử dụng bản án, quyết định của Tòa án trong đào tạo nghề luật – PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng
- Việc sử dụng quyết định của Tòa án trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy tại Cộng hòa Pháp – TS. Pierre Macqueron
- Tổng quan phương pháp giảng dạy qua án trong chuyên ngành luật từ các nước trong hệ thống thông luật và dân luật – TS. Phan Nhật Thanh
- Thực trạng và ý nghĩa của việc sử dụng bản án trong công tác đào tạo luật ở Việt Nam – TS. Bùi Xuân Hải
- Sử dụng bản án trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Luật TP. HCM – những vấn đề nhìn từ góc độ đảm bảo chất lượng – ThS. Vũ Duy Cương – ThS. Phạm Đình Phú
- Sử dụng bản án trong giảng dạy: Góc nhìn từ người làm thực tiễn – LS. Trương Nhật Quang
- Sử dụng bản án để xây dựng tình huống trong đào tạo luật – PGS.TS. Phan Huy Hồng
- Bàn về việc sử dụng bản án làm chất liệu thiết kế bài giảng môn học chuyên ngành luật – TS. Phan Thị Thành Dương
- Sơ lược về sử dụng bản án trong công tác nghiên cứu khoa học – PGS.TS. Trần Thị Thùy Dương
- Sử dụng bản án trong giảng dạy pháp luật phần lý thuyết – kinh nghiệm qua một trường hợp ở Anh – TS. Đỗ Thị Mai Hạnh
TÓM TẮT
Sử dụng bản án trong giảng dạy là cần thiết cho chất lượng đào tạo luật. Bài viết cho biết nên sử dụng những bản án nào cũng như cách thức khai thác bản án cho thảo luận. Ngoài ra, bài viết còn cho thấy ích lợi của việc sử dụng bản án trong thảo luận để đáp ứng cam kết đào tạo theo nhu cầu của xã hội.
1. Dẫn nhập.
Giảng dạy thảo luận là một hình thức đào tạo không thể thiếu trong đào tạo pháp luật nếu chúng ta muốn có chất lượng. Qua các buổi thảo luận, sinh viên sẽ được trang bị kiến thức cũng như kỹ năng và giảng viên sẽ giám sát hiệu quả kết quả học tập của sinh viên.
Trong bài viên này, chúng tôi không bàn về sự cần thiết của các buổi thảo luận mà tập trung vào trao đổi kinh nghiệm của việc sử dụng bản án, quyết định của Tòa án (viết gọn là “bản án”) trong các buổi thảo luận.
Xoay quanh chủ đề này, tác giả sẽ làm rõ ba câu hỏi sau: Thứ nhất, nên sử dụng những bản án nào cho các buổi thảo luận? Thứ hai, nên sử dụng các bản án này như thế nào? Thứ ba, việc sử dụng các bản án của Tòa án hướng tới đạt kết quả gì?
I – Xác định bản án của Tòa án được sử dụng trong thảo luận
2. Tiêu chí xác định.
Các bản án của Tòa án rất đa dạng và có thể được phân thành nhiều loại để dễ khai thác và có nhiều cách để phân loại. Chẳng hạn, khi dựa vào bản chất của quan hệ mà Tòa án giải quyết, chúng ta có thể phân loại bản án dân sự, bản án thương mại, bản án hành chính, còn khi dựa vào cấp xét xử, chúng ta có bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm…
Trên thực tế, bản án nào cũng có thể được sử dụng để giảng dạy vì, trong bản án, luôn có các vấn đề pháp lý và sinh viên hoàn toàn có thể có được những thông tin từ bản án của Tòa án. Tuy nhiên, do số lượng bản án của Tòa án nhiều và sinh viên cũng như giảng viên không có nhiều thời gian trong các buổi thảo luận nên cần có sự lựa chọn để tăng tính hiệu quả của việc giảng dạy. Để phục vụ tốt cho công tác giảng dạy trong đó có thảo luận, chúng ta nên theo cách phân loại khác cách phân loại nêu trên. Cụ thể, trong bản án của Tòa án, chúng ta luôn thấy quan điểm của cơ quan tài phán về một hay một số vấn đề pháp lý. Và như vậy, tiêu chí xác định bản án dự kiến được sử dụng trong giảng dạy nên dựa vào mối quan hệ giữa các vấn đề pháp lý mà bản án đã giải quyết và văn bản quy phạm pháp luật.
Với tiêu chí trên, chúng ta có thể xác định nên sử dụng những bản án nào (2) và không nên sử dụng những bản án nào trong thảo luận (1).
1) Bản án không nên được sử dụng
3. Phù hợp với văn bản rõ ràng.
Đối với bản án giải quyết những vấn đề pháp lý đã có văn bản rõ ràng (tức văn bản không gây cách hiểu khác nhau) và bản án đã đưa ra hướng giải quyết phù hợp với văn bản thì chúng ta không nên sử dụng trong thảo luận.
4. Lý do không sử dụng.
Sở dĩ không nên sử dụng loại bản án như trên là vì thông qua nghiên cứu bản án loại này, sinh viên hầu như không thêm được thông tin gì so với văn bản quy phạm pháp luật. Bởi lẽ, văn bản đã rõ ràng và bản án cũng chỉ nhắc lại những gì văn bản đã nêu. Nói cách khác, các bản án này không nên được khai thác vì nếu có khai thác thì sinh viên và giảng viên mất thời gian nhưng lại không học hỏi được điều gì so với văn bản (nên chỉ cần đọc văn bản là đủ).
2) Bản án nên được sử dụng
5. Hướng giải quyết không được quy định.
Khi đối chiếu hướng giải quyết của Tòa án trong bản án với văn bản quy phạm pháp luật thì chúng ta thấy vấn đề pháp lý có trong bản án cũng như hướng giải quyết của Tòa án có thể chưa được văn bản quy định.
Ví dụ, theo Điều 645 Bộ luật Dân sự (BLDS) thì “thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Đồng thời theo khoản 3 Điều 155 BLDS: “thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện”. Như vậy, kết hợp hai quy định này, chúng ta có kết quả là khi hết thời hiệu yêu cầu chia di sản, người thừa kết mất quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu chia di sản. Tuy nhiên, quy định trên lại không cho biết về hệ quả của hết thời hiệu yêu cầu chia di sản đối với di sản. Cụ thể, khi hết thời hiệu yêu cầu chia di sản, chúng ta không biết phải xử lý di sản này như thế nào vì văn bản chỉ giới hạn ở việc khẳng định người thừa kế mất quyền khởi kiện ra Tòa án. Nói cách khác, đây là vấn đề chưa được văn bản quy định và chúng ta nên sử dụng bản án của Tòa án có hướng giải quyết về chủ đề này.
Trong thực tiễn xét xử, đối với vấn đề nêu trên, Tòa án tối cao đã ban hành nhiều quyết định giám đốc thẩm theo hướng người thừa kế nào đang quản lý di sản thì tạm thời tiếp tục quản lý di sản[1]. Loại bản án này cho chúng ta biết hướng giải quyết mà văn bản chưa quy định nên khi cho sinh viên nghiên cứu thì sinh viên sẽ biết thêm được thiếu sót của văn bản đồng thời biết được hướng giải quyết trong thực tiễn.
6. Hướng giải quyết không được quy định rõ.
Khi đối chiếu hướng giải quyết của Tòa án trong bản án với văn bản quy phạm pháp luật, chúng ta thấy vấn đề pháp lý nêu trong bản án cũng như hướng giải quyết của Tòa án có thể được văn bản quy định nhưng văn bản chưa thực sự rõ ràng nên có thể có nhiều cách hiểu khác nhau giữa những người quan tâm (như luật sư, Viện kiểm sát, công chứng viên, giảng viên…).
Ví dụ, theo khoản 1 Điều 161 BLDS: “thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây: Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu”. Điều khoản này định nghĩa trở ngại khách quan nhưng còn rất chung chung[2] và thực tế đã làm phát sinh câu hỏi khi một người bị giam giữ như bị đi tù thì thời gian bị giam giữ có được coi là trở ngại khách quan để không tính thời gian bị giam giữ vào thời hiệu khởi kiện hay không?
Trước câu hỏi trên đã có hai quan điểm trái chiều nhau xuất phát từ quy định còn khá chung chung: Quan điểm thứ nhất cho rằng người bị giam giữ thuộc trường hợp có trở ngại khách quan nên thời gian bị giam giữ không tính vào thời hiệu khởi kiện (nên thời hiệu kết thúc muộn hơn thông thường). Quan điểm khác cho rằng người bị giam giữ vẫn có thể ủy quyền cho người khác để khởi kiện nên đây không là trở ngại khách quan, do đó thời gian bị giam giữ không được tính vào thời hiệu (nên thời hiệu sẽ kết thúc sớm hơn tình huống trước). Ở đây, Tòa án nhân dân tối cao đã có quyết định giám đốc thẩm theo hướng cá nhân bị tù giam được coi là trở ngại khách quan nên thời gian bị giam giữ là khoảng thời gian không được tính vào thời hiệu khởi kiện[3]. Chúng ta nên sử dụng loại quyết định này để phục vụ cho việc thảo luận. Bởi lẽ, sinh viên sẽ biết được văn bản còn chung chung nên đã phát sinh cách hiểu khác nhau trong thực tiễn và Tòa án tối cao đã có hướng giải quyết cho vấn đề này.
7. Hướng giải quyết chồng chéo.
Khi đối chiếu hướng giải quyết của Tòa án trong bản án với văn bản quy phạm pháp luật, chúng ta thấy vấn đề pháp lý cũng như hướng giải quyết của Tòa án có thể được các văn bản điều chỉnh nhưng các văn bản liên quan lại chồng chéo nhau (tức có hướng xử lý khác nhau).
Chẳng hạn, thực tế đã gặp trường hợp người thế chấp tài sản (vẫn giữ tài sản) mang tài sản của mình đi phạm tội (như dùng tàu đã thế chấp cho Ngân hàng để đi cắt cáp dưới biển). Đối với tài sản thế chấp được sử dụng để phạm tội, chúng ta có quy định của pháp luật hình sự theo hướng tịch thu tài sản này để sung quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, theo pháp luật dân sự, người nhận thế chấp được quyền mang tài sản này để xử lý nhằm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Như vậy, đối với tài sản thế chấp được sử dụng để phạm tội, hiện nay chúng ta có văn bản điều chỉnh nhưng các văn bản điều chỉnh khác nhau (và thực tế Tòa án địa phương có hướng giải quyết khác nhau do áp dụng văn bản hình sự hay văn bản dân sự)[4].
Thực tế, Tòa án nhân dân tối cao đã có một quyết định giám đốc thẩm về vấn đề nêu trên. Loại quyết định như vậy nên đưa cho sinh viên nghiên cứu và thảo luận. Bởi lẽ, khi thảo luận về quyết định loại này, sinh viên sẽ thấy được sự chồng chéo của văn bản, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao về một vấn đề pháp lý phát sinh trong đời sống.
8. Hướng giải quyết khác với văn bản.
Khi đối chiếu hướng giải quyết của Tòa án trong bản án với văn bản quy phạm pháp luật, chúng ta thấy hướng giải quyết của Tòa án có thể được văn bản quy định nhưng hướng giải quyết của Tòa án khác với văn bản.
Ví dụ, theo khoản 1 Điều 411 BLDS: “trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu”. Quy định này cho thấy khi hợp đồng không thể thực hiện được ngay từ thời điểm giao kết thì thuộc trường hợp vô hiệu. Tuy nhiên, quy định này giới hạn việc vô hiệu ở trường hợp không thể thực hiện được vì “lý do khách quan” (như tài sản cho thuê bị cháy do hỏa hoạn trước khi xác lập hợp đồng thuê và các bên không biết điều này). Trong thực tế, còn gặp trường hợp Tòa án vận dụng điều luật trên cho trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được vì lý do chủ quan. Chẳng hạn, Tòa án áp dụng quy định trên cho trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do bên bán và bên mua thỏa thuận bán một máy hiệu Hitachi nhưng không nêu đời máy, thực trạng của máy nên đã dẫn tới tranh chấp và Tòa án không thể cho thực hiện hợp đồng vì không biết bên bán phải giao máy nào, bên mua được nhận máy nào[5].
Đối với loại bản án như trên, chúng ta cũng nên cho sinh viên nghiên cứu, thảo luận. Qua đây, sinh viên sẽ hiểu được văn bản được đối chiếu (Điều 411 BLDS), hướng giải quyết của Tòa án để sinh viên biết cách ứng xử sau khi ra trường (chẳng hạn như kiến nghị sửa đổi BLDS nếu thấy thực tiễn xét xử trên là thuyết phục).
II. Cách thức sử dụng bản án của Tòa án trong thảo luận
9. Hai nội dung.
Để sinh viên hiểu rõ bản án của Tòa án và giá trị của bản án được sử dụng trong thảo luận, chúng ta nên đặt cho sinh viên những câu hỏi để làm sáng tỏ hai nội dung sau:
Thứ nhất là đặt những câu hỏi để sinh viên hiểu được quan điểm hay hướng giải quyết của cơ quan tài phán đã ra bản án. Thứ hai là đặt những câu hỏi để sinh viên hiểu được giá trị của hướng giải quyết của cơ quan tài phán đã ra bản án.
Để hiểu rõ hơn cách thức khai thác bản án với hai định hướng trên, chúng ta sử dụng quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao về việc người thế chấp sử dụng tài sản thế chấp để phạm tội đã được đề cập ở trên[6].
- Đặt câu hỏi để hiểu hướng giải quyết của Tòa án
10. Câu hỏi để hiểu tình tiết.
Để hiểu được quan điểm của cơ quan tài phán, chúng ta nên hiểu rõ về tình tiết mà dựa vào đó cơ quan tài phán đưa ra hướng giải quyết. Trong bản án có thể có nhiều tình tiết liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau nhưng chúng ta chỉ tập trung vào những tình tiết liên quan đến vấn đề mà chúng ta muốn sinh viên thảo luận. Trong vụ án nêu trên, có nhiều vấn đề như trách nhiệm hình sự của người phạm tội và xử lý tài sản thế chấp (ba chiếc tàu) được sử dụng để phạm tội. Ở đây, chúng ta chỉ quan tâm tới vấn đề thứ hai nên chỉ tập trung vào những tình tiết liên quan đến vấn đề thứ hai. Với định hướng nêu trên chúng ta có thể đặt các câu hỏi sau:
Thứ nhất, nêu lên đoạn nào của quyết định cho thấy ba chiếc tàu trên đã được thế chấp hợp pháp cho ngân hàng? Khi trả lời câu hỏi này, sinh viên buộc phải đọc toàn bộ quyết định và liệt kê những đoạn cho thấy ba chiếc tàu đã được thế chấp hợp pháp cho ngân hàng. Các đoạn liên quan đến câu hỏi này có thể nằm trong phần Nhận thấy và/hoặc trong phần Xét thấy. Thông qua trả lời câu hỏi này, sinh viên sẽ hiểu rằng ba chiếc tàu đã được thế chấp hợp pháp cho ngân hàng.
Thứ hai, nêu lên đoạn nào của quyết định cho thấy ba chiếc tàu trên đã được sử dụng để phạm tội? Khi trả lời câu hỏi này, sinh viên buộc phải đọc toàn bộ quyết định và liệt kê những đoạn cho thấy ba chiếc tàu đã được sử dụng để phạm tội. Các đoạn liên quan đến câu hỏi này có thể nằm trong phần Nhận thấy và/hoặc trong phần Xét thấy. Thông qua trả lời câu hỏi trên trong vụ việc được sử dụng làm minh họa, sinh viên hiểu rằng ba chiếc tàu đã được người thế chấp sử dụng để cắt cáp quang trái pháp luật.
11. Câu hỏi để biết các quan điểm pháp lý.
Liên quan đến một vấn đề pháp lý, chúng thường gặp những quan điểm trái chiều nhau, nhất là khi chúng ta thuộc những trường hợp nêu tại phần I (2) nêu trên. Do đó, chúng ta nên đặt những câu hỏi để sinh viên biết được những quan điểm này, nhất là quan điểm đã được thể hiện trong bản án được sử dụng trong buổi thảo luận.
Chẳng hạn, chúng ta đặt câu hỏi là sinh viên cho biết quan điểm của Tòa sơ thẩm, Tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát… về chủ đề muốn làm rõ. Ví dụ, đối với vụ việc được sử dụng để minh họa, chúng ta có thể đặt câu hỏi sau: Cho biết quan điểm của Tòa sơ thẩm, Tòa phúc thẩm cũng như của Viện kiểm sát địa phương về việc có tịch thu sung quỹ nhà nước hay không tài sản thế chấp được người thế chấp sử dụng để phạm tội? Để trả lời câu hỏi trên, sinh viên phải đọc toàn bộ quyết định (phần Nhận thấy cũng như Xét thấy).
Đối với vụ việc được minh họa, sau khi đọc toàn bộ quyết định, sinh viên sẽ thấy Tòa án cấp sơ thẩm không quyết định tịch thu tài sản thế chấp (3 chiếc tàu) mà giao cho bên nhận thế chấp (ngân hàng) để xử lý. Tuy nhiên, nội dung của quyết định còn cho thấy Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Tòa phúc thẩm đã theo hướng tịch thu sung quỹ nhà nước 03 chiếc tàu nêu trên.
12. Câu hỏi để biết quan điểm của cơ quan tài phán.
Vì chúng ta đang sử dụng bản án của cơ quan tài phán để thảo luận nên chúng ta cũng cần có câu hỏi để sinh viên tìm ra câu trả lời của cơ quan tài phán đã ra bản án.
Chẳng hạn, đối với vụ việc được sử dụng để minh họa, đây là quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nên chúng ta đặt câu hỏi để sinh viên biết được quan điểm của Hội đồng thẩm phán về vấn đề pháp lý nêu trên. Ví dụ, chúng ta yêu cầu sinh viên cho biết: Quan điểm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đối với việc có tịch thu sung quỹ nhà nước hay không tài sản thế chấp được người thế chấp sử dụng để phạm tội?
Để có câu trả lời, sinh viên phải đọc kỹ phần Xét thấy và phần Quyết định của bán án (quan điểm của cơ quan tài phán ra bản án không nằm trong phần Nhận thấy mà chỉ nằm trong phần Xét thấy, Quyết định). Trong vụ việc được nghiên cứu, sinh viên sẽ thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng việc tịch thu tài sản sung quỹ nhà nước là không đúng mà phải giao cho người nhận thế chấp tài sản (ngân hàng) để xử lý nhằm thực hiện nghĩa vụ trả nợ và tiền dư (nếu có) mới được tịch thu sung quỹ nhà nước.
- Đặt câu hỏi để hiểu giá trị hướng giải quyết của Tòa án
13. Cách thức xác định giá trị của bản án.
Phần trên đã cho chúng ta hiểu được hướng giải quyết của Tòa án ra bản án mà chúng ta dự tính sử dụng phục vụ công tác giảng dạy (trong đó có thảo luận).
Vấn đề tiếp theo là chúng ta phải đánh giá được giá trị của hướng giải quyết của Tòa án và, để biết được giá trị này, chúng ta nên thiết kế những câu hỏi để định hướng công việc của sinh viên. Các câu hỏi này chỉ tập trung vào vấn đề mà chúng ta muốn làm rõ (như trong tình huống làm minh họa, chúng ta không quan tâm tới trách nhiệm hình sự của người phạm tội mà chỉ quan tâm tới việc có tịch thu sung quỹ nhà nước hay không tài sản thế chấp được người thế chấp sử dụng để phạm tội?).
Để biết được giá trị của bản án về chủ đề mà chúng ta quan tâm (như trong ví dụ minh họa là xử lý tài sản thế chấp được sử dụng để phạm tội), chúng ta nên đặt câu hỏi để sinh viên đối chiếu hướng giải quyết của Tòa án với các giá trị sau:
14. Đối chiếu với văn bản quy phạm pháp luật.
Pháp luật của chúng ta ưu tiên văn bản quy phạm pháp luật (theo hệ thống pháp luật thành văn). Do đó, công việc đầu tiên và rất quan trọng là chúng ta đối chiếu hướng giải quyết của Tòa án so với văn bản quy phạm pháp luật.
Chúng ta nên đặt câu hỏi cho sinh viên để sinh viên cho biết hướng giải quyết của Tòa án đã được văn bản quy phạm điều chỉnh chưa? Chẳng hạn, hướng không tịch thu tài sản thế chấp (hợp pháp) được sử dụng để phạm tội và giao cho người nhận thế chấp để xử lý đồng thời tịch thu tiền dư nhằm sung quỹ nhà nước đã được quy định trong văn bản nào chưa? Trả lời câu hỏi này đòi hỏi sinh viên phải nghiên cứu kỹ các văn bản liên quan đến vấn đề pháp lý mà chúng ta đang quan tâm.
Tùy từng vấn đề mà chúng ta sẽ có câu trả lời và câu trả lời có thể là: hướng giải quyết của Tòa án đã được quy định cụ thể trong văn bản rõ ràng, hoặc được quy định trong văn bản nhưng văn bản chưa rõ hay văn bản còn chồng chéo nhau như đã trình bày ở trên. Nếu hướng giải quyết của Tòa án đã được văn bản quy định rõ ràng, cụ thể và không làm phát sinh khó khăn gì thì bản án không có nhiều giá trị vì Tòa án chỉ nhắc lại văn bản và sinh viên hiểu văn bản là đủ về nhận thức. Còn nếu là trường hợp khác thì bản án có giá trị làm rõ văn bản, bổ sung cho văn bản nên bản án có giá trị cho người quan tâm. Chẳng hạn, đối với ví dụ minh họa và với những văn bản hiện nay, sinh viên sẽ có câu trả lời là, trước sự chồng chéo giữa các văn bản xoay quanh việc sử dụng tài sản thế chấp để phạm tội, hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán (ưu tiên pháp luật dân sự so với pháp luật hình sự) chưa được văn bản nào quy định.
15. Đối chiếu với các giá trị khác văn bản.
Để biết giá trị của bản án thì, ngoài việc đối chiếu với văn bản quy phạm pháp luật, chúng ta nên đối chiếu hướng giải quyết của cơ quan tài phán với các giá trị khác như với quan điểm của các tác giả, pháp luật trước và sau bản án, với pháp luật nước ngoài.
Để làm được việc trên, chúng ta đặt những câu hỏi để sinh viên tìm câu trả lời: Chẳng hạn, yêu cầu sinh viên cho biết: Hướng giải quyết của Tòa án có được ghi nhận trong pháp luật nước ngoài đối với hoàn cảnh tương tự không? Hướng giải quyết này đã được các tác giả đề xuất chưa hay là giải pháp hoàn toàn mới của Tòa án?…
Để trả lời câu hỏi trên, chúng ta buộc sinh viên phải đọc nhiều tài liệu (không chỉ giới hạn ở đọc văn bản) như sách, tạp chí, luận án, luận văn… Chẳng hạn, đối với vụ việc được sử dụng để minh họa, sinh viên phải đọc tài liệu và có thể có câu trả lời sau khi nghiên cứu là trong pháp luật Pháp thì văn bản cũng như thực tiễn xét xử Pháp theo hướng không tịch thu sung quỹ nhà nước mà ưu tiên cho người nhận bảo đảm (do đó sẽ thấy hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán đã có kinh nghiệm của nước ngoài tương tự).
16. Quan điểm cá nhân của sinh viên.
Giáo dục có chất lượng là giáo dục khơi dậy trí tuệ, chứ không áp đặt trí tuệ. Việc yêu cầu sinh viên đối chiếu hướng giải quyết của Tòa án với những giá trị nêu trên chưa đủ vì việc đối chiếu trên mới chỉ tạo cho sinh viên có kiến thức đa chiều (cũng đã là rất tốt nhưng chưa đủ) mà chưa hướng sinh viên tới tư duy cá nhân.
Ngoài những câu hỏi để sinh viên có kiến thức đa chiều nêu trên, chúng ta cũng cần có những câu hỏi để khơi dậy trí tuệ của người học và cụ thể là cần có những câu hỏi để hướng sinh viên tới tư duy cá nhân về vấn đề pháp lý mà bản án đã đề cập. Ở giai đoạn này, chúng ta nên yêu cầu sinh viên cho quan điểm của mình. Chẳng hạn, chúng ta có thể đặt câu hỏi: Quan điểm của anh/chị như thế nào về hướng giải quyết của Tòa án?… Để có câu trả lời, sinh viên phải nghiên cứu nhiều để có kiến thức trước khi trả lời, đồng thời sinh viên phải tư duy để có thể cho quan điểm cá nhân của mình đối với giải pháp của Tòa án (thực chất là suy nghĩ về quan điểm pháp lý của những người có nhiều kinh nghiệm như thẩm phán).
Để thực sự khơi dậy trí tuệ của người học, người thầy nên theo hướng ghi nhận tư duy có lập luận của sinh viên cho dù tư duy này không phù hợp với quan điểm cá nhân của người thầy. Ở giai đoạn này, người thầy không là cơ quan tài phán nên không đặt nặng vấn đề đúng hay sai (nhất là khi văn bản chưa có quy định, chưa rõ ràng hay chồng chéo như nêu trên) mà chỉ nên đóng vai trò của nhà sư phạm gợi mở những hướng giải quyết để khơi dậy trí tuệ của sinh viên. Nói cách khác, trước những vấn đề mà văn bản vẫn chưa có câu trả lời rõ rang, người đứng lớp không nên áp đặt tư duy cá nhân của mình cho sinh viên vì sự áp đặt này sẽ làm triệt tiêu sự sáng tạo của người khác.
III. Lợi ích của việc sử dụng bản án của Tòa án trong thảo luận
17. Mục tiêu đào tạo.
Đào tạo ngày nay phải đáp ứng chuẩn đầu ra và Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh đã công bố cam kết chuẩn đầu ra với xã hội. Việc sử dụng bản án của Tòa án trong thảo luận là một cách thức khá hiệu quả để đáp ứng được một số các mục tiêu này. Ở đây, chúng tôi sẽ phân tích ích lợi của việc sử dụng bản án của Tòa án trong việc đáp ứng mục tiêu kiến thức và mục tiêu kỹ năng mà Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh đã công bố cam kết.
- Đáp ứng chuẩn đầu ra về kiến thức
18. Cam kết sinh viên vững kiến thức.
Sinh viên có thể chỉ có kiến thức lý thuyết nếu chúng ta không đòi hỏi nhiều ở sinh viên và Nhà trường cũng có thể hài lòng với điều đó nêu không quan tâm tới chất lượng đào tạo.
Tuy nhiên, theo công văn số 2067/BC-ĐHL ngày 29 tháng 11 năm 2013 của Hiệu trưởng trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh cam kết sinh viên ngành Luật “có kiến thức chuyên môn vững vàng”, biết “tự cập nhật các kiến thức pháp luật mới và thực tiễn áp dụng”. Điều đó có nghĩa là chúng ta đã cam kết rõ là sinh viên không chỉ có “kiến thức pháp luật mới” mà còn có cả “thực tiễn áp dụng” đồng thời phải có “kiến thức chuyên môn vững vàng”. Một sinh viên khó được coi là có kiến thức chuyên môn vững vàng và kiến thức về thực tiễn áp dụng trong lĩnh vực pháp luật khi chỉ biết văn bản điều chỉnh một vấn đề pháp lý như thế nào, đến đâu, tức chỉ có kiến thức thuần túy về văn bản bản (loại kiến thức này chỉ cần đọc văn bản là có). Để được coi là có kiến thức chuyên môn vững vàng, sinh viên còn nên biết cả những kiến thức thực tiễn, nhất là thực tiễn xét xử.
Nhìn một cách tổng thể, cam kết nêu trên của Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh là cần thiết, xác đáng và, nếu được đáp ứng, trường sẽ không bị trách là “sinh viên ra trường phải đào tạo lại (về kiến thức) để có thể làm việc được”.
19. Đáp ứng mục tiêu thông qua thảo luận bản án.
Mục tiêu trên hoàn toàn có thể được đáp ứng thông qua việc sử dụng các bản án của Tòa án trong các buổi thảo luận.
Bởi lẽ, như đã trình bày ở trên, khi thảo luận về các bản án của Tòa án, sinh viên phải đọc các bản án của Tòa án và biết được hướng giải quyết của Tòa án. Với những yêu cầu nêu trên, sinh viên không chỉ biết được hướng giải quyết của Tòa án mà còn, thông qua việc thảo luận về bản án của Tòa án, nắm được văn bản quy phạm pháp luật, quan điểm của các tác giả hay pháp luật nước ngoài… liên quan đến vấn đề pháp lý được thảo luận. Nói cách khác, thông qua thảo luận về các bản án của Tòa án với những câu hỏi nêu trên, sinh viên sẽ có kiến thức chuyên môn vững vàng, có kiến thức trong áp dụng pháp luật.
Khi trao đổi với những người tiếp nhận sinh viên luật (nói chung), người sử dụng thường phàn nàn là phải đào tạo lại vì sinh viên do sinh viên ra trường thiếu nhiều kỹ năng trong đó có kiến thức về thực tiễn. Do đó, để đáp ứng nhu cầu xã hội, chúng ta không chỉ cung cấp cho sinh viên kiến thức thuần túy về văn bản hay quan điểm của giảng viên mà cần cung cấp cho sinh viên cả kiến thức thực tiễn, nhất là thực tiễn xét xử về những vấn đề pháp lý mà đời sống gặp phải. Để đạt được điều đó, nghiên cứu các bản án của Tòa án trong các buổi thảo luận là điều nên làm.
- Đáp ứng chuẩn đầu ra về kỹ năng
20. Cam kết các chuẩn đầu ra về kỹ năng.
Theo công văn số 2067/BC-ĐHL ngày 29 tháng 11 năm 2013 của Hiệu trưởng trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh cam kết sinh viên ngành Luật “có khả năng tư duy độc lập, kỹ năng vận dụng pháp luật vào thực tiễn”, “nhận thức, phân tích, đánh giá đúng các vấn đề pháp lý”, “tự cập nhật các kiến thức pháp luật mới và thực tiễn áp dụng; Kỹ năng phát hiện, giải quyết vấn đề thuộc chuyên ngành đào tạo”. Bên cạnh đó, trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh cũng cam kết sinh viên ra Trường “có khả năng làm việc độc lập, giải quyết công việc với tư duy lôgíc và sáng tạo; Có kỹ năng làm việc nhóm; Có khả năng giao tiếp, trình bày và truyền thông; Có khả năng tra cứu thông tin, nghiên cứu văn bản, tài liệu; Có kỹ năng viết và trình bày rõ ràng một vấn đề, làm báo cáo một cách thuần thục”.
21. Đáp ứng chuẩn đầu ra về kỹ năng.
Với việc sử dụng các bản án của Tòa án trong việc thảo luận, chúng ta hoàn toàn có thể đáp ứng được các chuẩn đầu ra nêu trên.
Chẳng hạn, đối với rèn luyện khả năng tư duy độc lập, sinh viên nghiên cứu bản án của Tòa án hoàn toàn có thể đáp ứng. Bởi lẽ, khi nghiên cứu bản án của Tòa án, sinh viên được yêu câu tự đánh giá, cho quan điểm cá nhân đối với hướng giải quyết của Tòa án (quan điểm này hoàn toàn có thể khác với quan điểm của người thầyđứng lớp). Với những yêu cầu này, sinh viên buộc phải tư duy, buộc phải có quan điểm cá nhân về những vấn đề pháp lý đã được Tòa án giải quyết.
Tương tự, đối với kỹ năng làm việc nhóm, nghiên cứu bản án của Tòa trong các buổi thảo luận cũng hoàn toàn có thể được đáp ứng. Bởi lẽ, sinh viên phải cùng nhau nghiên cứu bản án trước buổi thảo luận và cùng nhau trình bày, bảo vệ quan điểm của nhóm mình trong các buổi thảo luận.
22. Tóm lại.
Việc khai thác bản án của Tòa án trong các buổi thảo luận theo cách thức nêu trên sẽ giúp sinh viên có kiến thức vững về những vấn đề pháp lý mà bản án đề cập. Thông qua các buổi thảo luận theo cách thức trên, sinh viên sẽ được trang bị kiến thức đa chiều về một vấn đề pháp lý và sự trang bị này là cần thiết cho giai đoạn sau khi sinh viên tốt nghiệp.
Với phương thức nêu trên, chúng ta sẽ rèn luyện cho sinh viên khả năng tư duy pháp lý tốt từ việc cho ý kiến, suy nghĩ cá nhân về hướng giải quyết của một người có nhiều kinh nghiệm như thẩm phán. Cũng với phương thức trên, sinh viên còn được rèn luyện một kỹ năng rất cần thiết cho người hoạt động trong lĩnh vực pháp luật. Đó là kỹ năng tổng hợp vì, về một vấn đề pháp lý, sinh viên sau khi thảo luận sẽ rất vững văn bản quy phạm pháp luật (do đọc văn bản), thực tiễn xét xử (do nghiên cứu bản án), quan điểm của các học giả (do đọc tài liệu, nghe giảng), pháp luật nước ngoài (do đọc tài liệu, nghe giảng) và có quan điểm cá nhân.
Với những ích lợi nêu trên, hy vọng rằng việc khai thác các bản án của Tòa án sẽ trở thành một nội dung không thể thiếu trong các giờ thảo luận tại các cơ sở đào tạo pháp luật, nhất là trong bối cảnh án lệ đã được ghi nhận trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 (cơ sở đào tạo luật cần truyền dạy án lệ nhưng không nên chỉ giới hạn ở việc truyền dạy án lệ đã tồn tại mà còn nên chủ động khai thác bản án để cùng nhau xây dựng án lệ).
CHÚ THÍCH
[1] Về chủ đề này, xem Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị quốc gia, 2015 (xuất bản lần thứ ba), Bản án số 143-145.
[2] “Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ dân sự của mình”.
[3] Về vụ việc này, xem Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh, 2014 (xuất bản lần thứ hai), Bản án số 1-4.
[4] Xem chi tiết ở phần sau.
[5] Về vụ việc này, xem Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị quốc gia, 2013 (tái bản lần thứ tư), Bản án số 63-64 (phần bình luận số 2).
[6] Về vụ việc này, xem Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ dân sự và Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị quốc gia, 2014 (xuất bản lần thứ hai), Bản án số 62.
Tác giả: PGS.TS. Đỗ Văn Đại – Trưởng Khoa Luật Dân sự – ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh, Thành viên tổ biên tập BLDS sửa đổi, Trọng tài viên – Phó chủ tịch Hội đồng Khoa học pháp lý của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC)
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2015 (89)/2015 – 2015, Trang 32-39
Trả lời