Kinh nghiệm về sử dụng bản án, quyết định của Tòa án trong đào tạo nghề luật: Việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam để thích nghi và hài hòa với thông lệ quốc tế là nhu cầu cấp bách cần đặt ra, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang nghiên cứu xây dựng mô hình tố tụng tranh tụng…
- Sử dụng bản án của Tòa án trong giảng dạy thảo luận – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
- Việc sử dụng quyết định của Tòa án trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy tại Cộng hòa Pháp – TS. Pierre Macqueron
- Tổng quan phương pháp giảng dạy qua án trong chuyên ngành luật từ các nước trong hệ thống thông luật và dân luật – TS. Phan Nhật Thanh
- Thực trạng và ý nghĩa của việc sử dụng bản án trong công tác đào tạo luật ở Việt Nam – TS. Bùi Xuân Hải
- Sử dụng bản án trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Luật TP. HCM – những vấn đề nhìn từ góc độ đảm bảo chất lượng – ThS. Vũ Duy Cương – ThS. Phạm Đình Phú
- Sử dụng bản án trong giảng dạy: Góc nhìn từ người làm thực tiễn – LS. Trương Nhật Quang
- Sử dụng bản án để xây dựng tình huống trong đào tạo luật – PGS.TS. Phan Huy Hồng
- Bàn về việc sử dụng bản án làm chất liệu thiết kế bài giảng môn học chuyên ngành luật – TS. Phan Thị Thành Dương
- Sơ lược về sử dụng bản án trong công tác nghiên cứu khoa học – PGS.TS. Trần Thị Thùy Dương
- Sử dụng bản án trong giảng dạy pháp luật phần lý thuyết – kinh nghiệm qua một trường hợp ở Anh – TS. Đỗ Thị Mai Hạnh
TỪ KHÓA: Bản án, Quyết định của Tòa án, Tòa án,
TÓM TẮT
Việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam để thích nghi và hài hòa với thông lệ quốc tế là nhu cầu cấp bách cần đặt ra, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang nghiên cứu xây dựng mô hình tố tụng tranh tụng. Một trong những biện pháp để hoàn thiện pháp luật chính là phương án xây dựng, sử dụng án lệ như một nguồn luật bổ sung khoảng trống pháp luật khi văn bản pháp luật điều chỉnh còn thiếu quy định. Hoạt động đào tạo cử nhân luật nói chung và nghề luật nói riêng ở Việt Nam cần đón đầu xu hướng xây dựng, áp dụng án lệ trong thực tiễn xét xử ở tương lai gần, tiếp cận tính chất ứng dụng thực hành, đào tạo cử nhân, thạc sỹ, nghề tư pháp theo chương trình chất lượng cao. Bài viết chia sẻ kinh nghiệm về sử dụng bản án, quyết định của Tòa án từ việc xây dựng chương trình đến lựa chọn nội dung đào tạo, biên tập, thẩm định hồ sơ tình huống, bản án quyết định của Tòa án trong đào tạo nghề luật, nhằm góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo.
Theo cách hiểu truyền thống, nghề luật hiện được xác định trên phạm vi rộng và hẹp. Với khái niệm rộng, nghề luật là nghề liên quan đến luật. Với khái niệm hẹp, nghề luật là nghề liên quan đến pháp luật trong lĩnh vực tư pháp. “Nghề luật là một nghề mà ở đó, những người hành nghề lấy pháp luật làm công cụ thực hiện các hoạt động pháp lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm đảm bảo pháp chế và pháp quyền xã hội chủ nghĩa”[1]. Với tính chất hoạt động dựa trên pháp luật, trong khuôn khổ luật định và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nghề luật mang tính nhân bản sâu sắc gắn với số phận của con người.
Từ khung pháp lý đến thực tiễn xét xử, việc sử dụng bản án, quyết định của Tòa án trong đào tạo nghề luật có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo. Bài viết này trao đổi về kinh nghiệm sử dụng bản án, quyết định của Tòa án trong đào tạo nghề luật ở phạm vi nghiệp vụ xét xử, nghiệp vụ kiểm sát, nghề luật sư.
1. Sự cần thiết sử dụng bản án, quyết định của Tòa án trong đào tạo nghề luật
Thực hiện quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị về phát triển án lệ tại Việt Nam, ngày 31/12/2012 Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao đã ban hành Quyết định số 74/ QĐ-TANDTC phê duyệt Đề án “Phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao” trong đó đề cập nhiều vấn đề căn bản về án lệ như mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, định hướng và các giải pháp. Thể chế hóa quan điểm trên trong các Nghị quyết của Đảng, khoản 3 Điều 104 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”. Tại khoản 3 Điều 20 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định cụ thể hơn nhiệm vụ này của Tòa án nhân dân, trong đó nhấn mạnh Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ, quyền hạn: “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng thống nhất trong xét xử”. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng, có ý nghĩa cho việc xây dựng, phát triển và áp dụng án lệ trong hoạt động xét xử của các cơ quan Tòa án trong thời gian tới mà hoạt động đào tạo nghề luật cần đón đầu.
Hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, nhiều quan hệ xã hội mới phát sinh chưa được pháp luật điều chỉnh hoặc có điều chỉnh nhưng đầy đủ, chưa rõ ràng hoặc có xung đột pháp luật. Trong quá trình xét xử trên phạm vi toàn quốc, Tòa án nhân dân các cấp tham khảo quyết định của Tòa chuyên trách, quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao qua việc hệ thống tuyển tập các quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được phát hành đến Tòa án nhân dân các cấp. Các quyết định này là nguồn tham khảo nhằm hướng dẫn cho các Thẩm phán khi xét xử các vụ án tương tự trên thực tế, góp phần khắc phục những lỗ hổng của pháp luật một cách nhanh chóng, kịp thời, tạo ra sự bình đẳng trong việc xét xử các vụ án giống nhau. Đây cũng là hình thức giải thích các quy định chưa rõ của pháp luật, tăng cường giáo dục pháp luật, tạo niềm tin cho người dân về tính minh bạch, công khai, bảo đảm sự thống nhất trong đường lối xét xử của hệ thống Tòa án.
Việc sử dụng bản án, quyết định của Tòa án trong đào tạo nghề luật có vai trò quan trọng trong công tác đào tạo ứng dụng, gắn kết công tác giảng dạy, học tập nghề với thực tiễn xét xử. Điều này một mặt sẽ khuyến khích và tạo điều kiện cho hoạt động sưu tầm và phát triển tư duy bình luận án, mặt khác góp phần tăng cường thói quen nghiên cứu, cập nhật thực tiễn pháp lý của giảng viên và học viên. Học viên sẽ không bỡ ngỡ, lúng túng trong thực tiễn hành nghề vì họ đã được đào tạo kỹ năng áp dụng, vận dụng, tham khảo các bản án, quyết định của Tòa án.
Với hoạt động giảng dạy, việc biến bản án, quyết định của Tòa án trở thành một học liệu quan trọng sẽ phát huy hiệu quả của phương pháp giảng dạy tích cực. Các bản án, quyết định có thể đóng vai trò như những bài tập tình huống điển hình giúp học viên nắm bắt kiến thức lý thuyết, kỹ năng tốt và hiệu quả hơn là những ví dụ do giảng viên xây dựng mang tính giả định.
2. Kinh nghiệm về xây dựng chương trình đào tạo kỹ năng nghề luật liên quan đến việc sử dụng phù hợp các bản án, quyết định của Tòa án
Xây dựng chương trình đào tạo kỹ năng nghề luật liên quan đến việc sử dụng phù hợp các bản án, quyết định của Tòa án cần xác định trọng tâm các nguyên tắc sau:
Một là, tránh lặp lại những kiến thức chung về sử dụng bản án, quyết định của Tòa án đã được trang bị tại bậc cử nhân luật. Chủ yếu tập trung hệ thống hóa các quy định về sử dụng bản án, quyết định làm cơ sở để rèn luyện kỹ năng phát hiện, phân tích, luận giải các vấn đề được nhận định, quyết định trong từng bản án, quyết định tương ứng với từng loại án.
Hai là, khi xây dựng chương trình cần chú trọng cân đối giữa nội dung, thời lượng đào tạo về sử dụng bản án, quyết định với các nội dung khác trong chương trình đào tạo nghề luật. Bản án, quyết định của Tòa án có thể được sử dụng gắn liền với hồ sơ vụ án để nghiên cứu toàn diện những chứng cứ, cơ sở, căn cứ mà dựa vào đó Tòa án ban hành phán quyết.
Ba là, tăng cường tính hiệu quả của phương pháp giảng dạy tích cực vào việc đào tạo kỹ năng phân tích, viện dẫn bản án, quyết định của Tòa án trong mối quan hệ chung với đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp khác.
Ban đầu, các nội dung giảng dạy về sử dụng bản án, quyết định chủ yếu được lồng ghép trong các chương trình đào tạo nghề luật với tư cách các chuyên đề hoặc các hoạt động ngoại khóa. Trước đòi hỏi của thực tiễn tư pháp và nhu cầu thiết thực của việc sử dụng bản án, quyết định trong đào tạo nghề luật, kinh nghiệm trong xây dựng chương trình hiện nay tại Học viện Tư pháp đã sửa đổi, bổ sung và xây dựng module trong mỗi bài học của chương trình đào tạo đảm bảo chuẩn đầu ra về kỹ năng của chương trình thống nhất gồm:
– Xác định các vấn đề pháp lý mấu chốt (cốt lõi) của vụ việc;
– Phân tích, áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ việc;
– Xây dựng hồ sơ vụ việc đáp ứng các yêu cầu cơ bản của hoạt động tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng;
– Thúc đẩy và hỗ trợ hoạt động thỏa thuận, hòa giải trong giải quyết tranh chấp;
– Phân tích, đánh giá chứng cứ đảm bảo cho việc Tòa án nhận định, quyết định trong bản án, quyết định được chính xác, khách quan, toàn diện; Soạn thảo văn bản sử dụng trong các hoạt động tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng; Ban hành các quyết định trên cơ sở quy định pháp luật và tình tiết vụ việc, phù hợp với bối cảnh xã hội, niềm tin công lý và có khả năng thi hành; Lập luận, nhận định và giải thích các quyết định, các quan điểm pháp lý.
Để thực hiện mục tiêu đào tạo này, cơ sở đào tạo nghề luật cần thay đổi cách tiếp cận trong việc xây dựng chương trình chuẩn đào tạo các chức danh tư pháp, cùng với việc ban hành chương trình, ban hành đề cương chi tiết thực hiện chương trình (chi tiết đến từng môn học và bài học). Trong từng chương trình của Học viện Tư pháp, mỗi bài học đều cố gắng lồng ghép tối đa việc sử dụng bản án, quyết định của Tòa án với yêu cầu của việc rèn luyện kỹ năng, theo module thiết kế chương trình thống nhất như sơ đồ sau:
Giới thiệu bài học → Lý thuyết kỹ năng → Chuẩn bị thực hành các tình huống → Thực hành tình huống 1 → Thực hành tình huống 2… → Đối thoại /trao đổi kinh nghiệm.
Phần giới thiệu bài học được kết cấu ở tất cả các bài học. Giảng viên giới thiệu cho học viên yêu cầu của từng bài học (lý thuyết, chuẩn bị thực hành tình huống, thực hành tình huống…); các tài liệu sử dụng cho nghiên cứu bài học (giáo trình, các bài viết nghiên cứu cần tham khảo, hồ sơ, các bản án, quyết định, các văn bản pháp luật và các tài liệu tham khảo khác); giới thiệu phương pháp học… nhằm mục đích giúp học viên nắm bắt được tổng thể nội dung bài học, hỗ trợ cho hoạt động tự nghiên cứu của học viên, đặc biệt là phần chuẩn bị học các giờ tình huống. Như vậy, bản án, quyết định (nếu có) sẽ là một dạng tài liệu bắt buộc phải giới thiệu để học viên và giảng viên cùng nghiên cứu, giảng dạy và học tập, thực hành theo kỹ năng ứng dụng được xác định ở từng bài học.
Phần lý thuyết kỹ năng phải đảm bảo trang bị cho học viên nội dung giảng dạy tối thiểu ở cấp độ học viên “phải biết”. Những nội dung “cần biết” và “nên biết” sẽ do học viên tự nghiên cứu theo hướng dẫn của đề cương môn học. Trong từng bài giảng lý thuyết, bản án, quyết định của Tòa án là ví dụ minh chứng điển hình liên quan đến phạm vi, nội dung bài học để tham khảo. Giảng viên có thể cung cấp nội dung bản án, quyết định đó cho học viên hoặc chỉ dẫn học viên nguồn tra cứu.
Phần chuẩn bị cho thực hành các tình huống sau khi học viên học lý thuyết kỹ năng được thiết kế theo hình thức đào tạo nghề là “cầm tay chỉ việc”, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn. Vì vậy, buổi học tình huống chỉ thực sự có hiệu quả khi học viên đã có sự chuẩn bị kỹ đối với bài học. Trên cơ sở học viên đã được giao bài tập nghiên cứu, chỉ dẫn, hướng dẫn hồ sơ, bản án, quyết định của Tòa án để đọc, học viên được dành thời lượng chuẩn bị cho việc thực hành tình huống với các hồ sơ được bộ môn lựa chọn, biên tập từ các vụ án điển hình trong thực tiễn xét xử, thể hiện rõ trong lịch học được công bố. Học viên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, yêu cầu, các phần phải học trước để chủ động tham gia vào môi trường cộng tác dạy – học. Kết quả nghiên cứu học viên thể hiện ở việc hoàn thành bài tập đánh giá để phục vụ cho buổi học tình huống tiếp theo và giảng viên trực tiếp đối thoại tại các giờ thực hành trên lớp. Để triển khai có hiệu quả các buổi chuẩn bị thực hành tình huống, các bộ môn xây dựng yêu cầu cụ thể, thống nhất áp dụng đối với từng bài học cho học viên nghiên cứu. Các yêu cầu này được cung cấp cho học viên ngay khi bắt đầu vào môn học. Sau buổi tự học, giảng viên có thể kiểm tra trực tiếp kết quả nghiên cứu của học viên.
Thực hành tình huống trên lớp gắn với hồ sơ, bản án, quyết định của từng loại án theo yêu cầu môn học. Các bộ môn triển khai đa dạng các hình thức tổ chức dạy – học như thảo luận nhóm, đóng vai, tọa đàm, tư vấn, chia sẻ kinh nghiệm phương pháp đánh giá phù hợp với từng bài học.
Đối thoại (trao đổi kinh nghiệm) là bài học khóa lại module chương trình. Học viên được giải đáp các vấn đề còn vướng mắc, trong đó bao gồm cả việc hiểu và tổng kết bài học từ việc sử dụng bản án, quyết định của Tòa án.
3. Kinh nghiệm về lựa chọn nội dung đào tạo về sử dụng bản án, quyết định của Tòa án
Trong việc rèn luyện kỹ năng thực hành tình huống từ hồ sơ thực tế, chương trình và nội dung đào tạo nghề luật chú trọng việc rèn luyện kỹ năng phân tích bản án, quyết định của Tòa án.
Ví dụ, trong giảng dạy nghiệp vụ xét xử dân sự, khi phân tích bản án, quyết định của Tòa án, giảng viên lưu ý đến những vấn đề cơ bản sau đây:
– Xác định yêu cầu của đương sự/quan hệ pháp luật tranh chấp;
– Xác định các sự kiện pháp lý, tình tiết pháp lý của vụ việc. Việc nhận biết các sự kiện pháp lý, các tình tiết pháp lý là cơ sở để giải quyết vụ việc là một trong các kỹ năng rất quan trọng của việc phân tích bản án, quyết định của Tòa án. Học viên phải nhận biết được các tình tiết nào là tình tiết pháp lý, tình tiết pháp lý nào là mấu chốt, có ý nghĩa trong giải quyết vụ việc;
– Xác định các quy phạm pháp luật cụ thể mà bản án, quyết định đã áp dụng để giải quyết vụ việc và nhận biết chính xác phán quyết của bản án, quyết định đối với các vấn đề pháp lý trong vụ việc;
– Nắm vững cách phân tích các quy định pháp luật đã được sử dụng như thế nào để giải thích cho việc ban hành phán quyết của Tòa án.
Quá trình xây dựng và triển khai bài học kỹ năng của từng chức danh theo định hướng chuẩn đầu ra, học viên phải có được những nhận thức cơ bản sau:
– Nội dung được rút ra từ bản án, quyết định là kết quả của việc nghiên cứu, giải quyết những vấn đề cụ thể phát sinh trong đời sống thực tế nên sẽ mang tính thực tiễn cao hơn luật thành văn;
– Bản án, quyết định của Tòa án là nguồn bổ trợ quan trọng nhằm kịp thời điều chỉnh những quan hệ xã hội mới phát sinh hoặc thay đổi;
– Quy trình để hình thành một quy tắc án lệ hết sức chặt chẽ. Một quy tắc án lệ không phải hình thành từ một bản án cụ thể, mà phải được hình thành qua hàng loạt các vụ việc tương tự về sau; đồng thời là kết quả của quá trình đưa ra những lý lẽ và tranh luận lâu dài.
Trên phương diện hệ thống và tổng quát, nội dung dạy – học về sử dụng bản án, quyết định của Tòa án trong các chương trình cần được xác định theo từng lĩnh vực chuyên sâu như lĩnh vực hình sự, lĩnh vực dân sự, hành chính, thương mại quốc tế…
Trong thực tế triển khai giảng dạy, vấn đề vướng mắc lớn nhất đó là sự không thống nhất của các giảng viên về kết luận với từng hồ sơ, bản án, quyết định của Tòa án được sử dụng. Để khắc phục vấn đề này, cần có những giải pháp tổng thể sau:
– Từng bước xác định, tổng kết, phát triển các nội dung đào tạo liên quan đến sử dụng bản án, quyết định của Tòa án một cách có hiệu quả nhất vào các chương trình đào tạo;
– Thống nhất về đề cương môn học, nội dung giảng dạy liên quan đến bản án, quyết định của Tòa án ở các bộ môn;
– Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động nghiên cứu khoa học về phân tích và bình luận các bản án quyết định như: tăng cường hoạt động bình luận án với sự tham gia của giảng viên, học viên, các Thẩm phán có uy tín, kinh nghiệm và các chuyên gia pháp lý cộng tác viên; tổ chức biên soạn, xuất bản các ấn phẩm, tạp chí, tài liệu là sản phẩm, kết quả của hoạt động này…;
– Chủ động tổ chức hoặc tham gia các hội thảo, diễn đàn khoa học về các vấn đề trực tiếp liên quan đến hoạt động xây dựng và triển khai áp dụng án lệ trong lĩnh vực xét xử tư pháp trong nước và quốc tế;
– Tích cực tham gia vào các hoạt động của hệ thống Tòa án nhằm xúc tiến đẩy mạnh quá trình nghiên cứu, sử dụng, công bố, phát triển án lệ ở Việt Nam.
4. Lựa chọn, biên tập, thẩm định hồ sơ, bản án, quyết định của Tòa án sử dụng trong đào tạo nghề luật
Các hồ sơ thực tế dùng trong hoạt động dạy – học các môn học kỹ năng nghề luật được thu thập từ các cơ quan tiến hành tố tụng; được chọn lọc và biên tập lại, thẩm định cho phù hợp với yêu cầu của bài học kỹ năng, được phát trước cho giảng viên và học viên. Học viên chủ động chuẩn bị nội dung trước khi lên lớp trên cơ sở hướng dẫn của giảng viên và được tham khảo sách hướng dẫn dạy – học, đề cương chi tiết môn học của các bộ môn. Để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động giảng dạy, đặc biệt là sử dụng bản án, quyết định trong đào tạo nghề, hồ sơ tình huống giảng dạy nghề luật hiện nay có những điểm mới mang tính đột phá về nội dung sau đây:
Thứ nhất, hồ sơ tình huống phải được xây dựng mới, thường xuyên cập nhật để đảm bảo nguồn học liệu có chất lượng cho buổi thực hành. Hồ sơ tình huống là một học liệu vô cùng quan trọng để đảm bảo và nâng cao chất lượng giảng dạy đối với các môn học kỹ năng, đặc biệt là rèn kỹ năng sử dụng bản án, quyết định của Tòa án trong học tập và nghiên cứu khoa học. Các hồ sơ, bản án, quyết định được bộ môn lựa chọn, biên tập là những hồ sơ thực tế đã được cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết, đã có hiệu lực pháp luật. Khi lựa chọn, xây dựng hồ sơ, lựa chọn bản án quyết định cần tính đến cả yếu tố xuất xứ của hồ sơ nhằm đảm bảo được sự hài hòa, phù hợp theo vùng, miền. Bên cạnh đó, vụ việc thực tế được lựa chọn, biên tập trong các hồ sơ giảng dạy cũng phong phú, đa dạng hơn. Quy trình thẩm định hồ sơ được quy định chặt chẽ, bộ môn phải có thuyết minh về yêu cầu và khả năng đáp ứng của từng hồ sơ tình huống phục vụ cho hoạt động dạy – học; bảo vệ việc sử dụng hồ sơ, bản án, quyết định đối với từng bài học để Hội đồng khoa học của nhà trường xem xét quyết định.
Thứ hai, đề xuất, xây dựng cách thức tiến hành giờ học tình huống một cách cụ thể, chi tiết để áp dụng vào quá trình giảng dạy đối với các môn học. Bộ môn cần có tài liệu hướng dẫn thực hành hồ sơ tình huống cho học viên. Mỗi hồ sơ tình huống sẽ được kèm theo yêu cầu của hồ sơ tình huống. Yêu cầu này các giảng viên và học viên đều phải tuân thủ trong quá trình chuẩn bị trước giờ thực hành và học trên lớp một cách thống nhất và hiệu quả.
Thứ ba, về hướng dẫn thảo luận hồ sơ tình huống. Để đạt hiệu quả cao hơn trong phần thực hành hồ sơ tình huống, sử dụng bản án, quyết định của Tòa án trong đào tạo nghề luật, các bộ môn quản lý “ngân hàng hồ sơ” theo mã số bài học và tổ chức chọn lựa hồ sơ cần dùng cho phần thực hành hàng năm của chương trình môn học. Bộ môn giao nhiệm vụ cho các giảng viên nghiên cứu, sắp xếp, biên tập lại các hồ sơ đã sưu tầm cho thích hợp với các bài giảng kỹ năng và đưa ra tập thể giảng viên của bộ môn thống nhất và thông qua cách thức giảng, đáp án về các tình huống của hồ sơ, bản án, quyết định của Tòa án được sử dụng trong hoạt động dạy – học. Điều này nhằm khắc phục tình trạng thiếu thống nhất của các giảng viên khi không có đáp án chuẩn để hướng dẫn học viên giải quyết các hồ sơ tình huống, phân tích, bình luận bản án, quyết định. Đây là kinh nghiệm để giải quyết triệt để tình trạng thắc mắc, nghi ngờ, hoang mang của học viên khi nghiên cứu chung một hồ sơ, bản án, quyết định của Tòa án lại có những đáp án khác nhau từ các giảng viên. Kèm theo hồ sơ, giảng viên cần có bài soạn và phương án giảng cụ thể về hồ sơ đó để hướng dẫn cho học viên có hiệu quả hơn.
Để đảm bảo đúng mục tiêu của các bài học tình huống cho mỗi phần của môn học, khoa chuyên môn phải thống nhất về phương pháp sử dụng hồ sơ tình huống qua tài liệu tập huấn giảng viên, đề cương hướng dẫn chi tiết buổi học thực hành và yêu cầu thực hành hồ sơ tình huống, phương pháp sử dụng hồ sơ tình huống trong các môn học kỹ năng. Cần nhận thức rằng, cách thức triển khai hồ sơ tình huống đóng vai trò hết sức quan trọng. Nếu không có cách thức sử dụng hồ sơ đúng thì chắc chắn kết quả hay mục tiêu của buổi học sẽ bị hạn chế.
Theo chương trình giảng dạy hiện nay tại Học viện Tư pháp, hồ sơ tình huống được lựa chọn, biên tập theo yêu cầu giảng dạy tương ứng với 4 phần của từng môn học, đó là: Hồ sơ tình huống phần kỹ năng cơ bản; Hồ sơ tình huống phần chuyên sâu; Hồ sơ tình huống phần diễn án; Hồ sơ tình huống phần thực tập.
Mỗi một hồ sơ được lựa chọn giảng dạy đều có mục tiêu cụ thể tương ứng với chất liệu thực tế của hồ sơ. Chất liệu vật chất của mỗi hồ sơ là khác nhau, do đó, mục tiêu sử dụng mỗi hồ sơ vào hoạt động dạy và học là khác nhau. Hồ sơ tình huống là chất liệu vật chất “đầu vào” giống nhau cho tất cả các lớp học, tuy nhiên, cách thức triển khai trên thực tế ở mỗi lớp học có sự khác nhau. Vấn đề là làm như thế nào để khai thác chất liệu hồ sơ được đúng và phù hợp với mục tiêu đào tạo cụ thể của mỗi bài học? Có thể khái quát hóa về cách thức sử dụng hồ sơ chung cho tất cả các lớp học hay không?
Kinh nghiệm cho thấy, để thực hiện hồ sơ tình huống, cần có hai loại yêu cầu, đó là: yêu cầu bắt buộc phải thực hiện đối với mỗi hồ sơ (thực hiện hồ sơ phải theo mục tiêu, yêu cầu của bài học) và yêu cầu không bắt buộc (yêu cầu mở) để dành chỗ cho sự sáng tạo, chủ động của giảng viên khi điều khiển lớp học trong giờ học tình huống. Phần bắt buộc khi sử dụng hồ sơ tình huống là những yêu cầu cứng mà khoa chuyên môn và từng bộ môn đã thống nhất về phương pháp thực hiện hồ sơ ở trên lớp và được áp dụng chung cho tất cả các lớp học, cho tất cả các giảng viên. Phần không bắt buộc cho phép giảng viên linh hoạt với điều kiện lớp học để việc thực hành hồ sơ đạt được những yêu cầu chung đã đặt ra.
Các bài học lý thuyết trong chương trình môn học kỹ năng được kết nối logic, khoa học và cùng thống nhất ở một điểm là rèn luyện kỹ năng nghề. Các bài học lý thuyết được thiết kế giảng dạy không độc lập tuyệt đối với nhau mà có sự tương tác, bổ trợ cho nhau. Điểm đặc trưng lớn nhất trong đào tạo nghề luật so với đào tạo hàn lâm là sử dụng bản án, quyết định không độc lập mà phải gắn với hồ sơ mà bản án, quyết định đó ban hành phán quyết. Bằng cách học bởi trải nghiệm thực tế, học viên được rèn luyện tư duy pháp lý: “Logic – biện chứng – hệ thống”, thông qua việc tìm hiểu phương pháp lập luận, hệ thống về những vấn đề pháp lý từ các bản án, quyết định của Tòa án trong thực tiễn xét xử, liên hệ các vấn đề cũng như khả năng chuẩn bị tốt về nội dung cho việc thực hành tranh tụng, bảo vệ một vấn đề trước cơ quan tài phán, từ đó có thể áp dụng trong hoạt động nghề nghiệp. Điều này khiến chương trình đào tạo nghề luật trở nên gần gũi với xu hướng chung của các nước trên thế giới và trong khu vực, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
CHÚ THÍCH
[1] Học viện Tư pháp, Đạo đức nghề luật, Nxb. Tư pháp, 2011, tr. 26. Đồng chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên, TS. Phan Chí Hiếu.
Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng – PGS-TS Luật học, Trưởng Khoa Đào tạo Luật sư – Học viện Tư pháp.
Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2015 (89)/2015 – 2015, Trang 26-31
Trả lời