Vấn đề cấm tra tấn và việc hoàn thiện pháp luật thi hành án phạt tù
Tác giả: ThS. Nguyễn Quang Vũ & ThS. Lê Thị Anh Nga
TÓM TẮT
Thi hành án phạt tù (THAPT) là một lĩnh vực có khả năng xảy ra hành vi tra tấn. Đáp ứng yêu cầu của Công ước về chống tra tấn (CAT) và Hiến pháp năm 2013, pháp luật về thi hành án phạt tù của Việt Nam hiện nay cần được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Bài viết phân tích làm rõ khái niệm tra tấn, các đòi hỏi của việc phòng chống tra tấn theo CAT, Hiến pháp năm 2013, pháp luật THAPT của Việt Nam và đề xuất định hướng hoàn thiện pháp luật THAPT từ góc nhìn của vấn đề cấm tra tấn.
Xem thêm bài viết về “Cấm tra tấn“, “Chống tra tấn“, “Công ước chống tra tấn 1984”
- Lịch sử về chống tra tấn và cơ chế bảo đảm quyền của người bị buộc tội khỏi bị tra tấn trong các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh
- Nghĩa vụ hợp tác dẫn độ, tương trợ tư pháp hình sự và quyền tài phán phổ quát của quốc gia theo Công ước chống tra tấn 1984 – TS. Ngô Hữu Phước
- Thực hiện nghĩa vụ của quốc gia trong việc nội luật hóa các quy định của Công ước chống tra tấn trong lĩnh vực tố tụng hình sự – PGS.TS. Trần Văn Độ
- Nội luật hóa quy định của Công ước về chống tra tấn liên quan đến tài phán trong Bộ luật Hình sự Việt Nam – ThS. Vũ Thị Thúy
- Nội luật hóa các quy định của Công ước quốc tế về chống tra tấn đối với hoạt động hỏi cung bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Lê Thị Thùy Dương
TỪ KHÓA:
Theo dòng lịch sử nhân loại, tra tấn đã xuất hiện từ rất sớm, trở thành phương thức thực hiện những mưu đồ đen tối của kẻ xấu, thậm chí là thú vui của những tên bạo chúa. Nhiều sự kiện lịch sử cho thấy tra tấn thường xảy ra ở chốn pháp đình và chốn ngục tù. Ngày nay, trong thế giới văn minh và hiện đại, tra tấn vẫn còn tồn tại. Do đó, loài người cần phải đấu tranh chống tra tấn, loại bỏ tra tấn khỏi đời sống xã hội.
Phản ánh một tư tưởng tiến bộ, vấn đề cấm tra tấn trở thành một yêu cầu bức thiết trong pháp luật quốc tế và quốc gia. Ngày 10/12/1984, Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (sau đây viết tắt là CAT), có hiệu lực kể từ ngày 26/6/1987. Ngày 07/11/2013, Chính phủ Việt Nam đã ký kết Công ước này và tại kỳ họp thứ VIII Quốc hội khóa XIII nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 83/2014/QH13 ngày 28/11/2014 phê chuẩn Công ước chống tra tấn.
Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn”.[1]Như vậy, xét cả trên bình diện luật quốc gia cũng như yêu cầu của luật quốc tế, Việt Nam cần phải rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng hệ thống pháp luật sao cho phù hợp với các quy định của CAT và đảm bảo thống nhất với quy định của Hiến pháp năm 2013.
1. Vấn đề cấm tra tấn
1.1. Vấn đề cấm tra tấn trong Công ước của Liên hợp quốc về Chống tra tấn
Theo Điều 1 của CAT, tra tấn được hiểu là “bất kỳ hành vi cố ý gây ra sự đau đớn hoặc khổ sở đối với một người về thể xác hoặc tinh thần, nhằm những mục đích thu thập thông tin hoặc sự nhận tội từ người đó hoặc một người thứ ba, trừng phạt người đó về một hành vi mà người đó hay người thứ ba đã thực hiện hoặc nghi ngờ đã thực hiện, đe dọa hoặc ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ lý do gì khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi mà sự đau đớn hoặc chịu đựng đó được gây ra bởi hoặc với sự xúi giục hoặc với sự đồng ý hoặc sự chấp thuận của một nhân viên công quyền hoặc người khác đang thực hiện công vụ. Khái niệm này không bao gồm sự đau đớn hoặc khổ sở là kết quả đương nhiên hoặc ngẫu nhiên của các hình phạt hợp pháp”.[2]
Từ quy định trên đây, có thể nhận thấy “tra tấn” là sự thống nhất của bốn yếu tố sau đây:
– Thứ nhất,tra tấn là hành vi gây đau đớn hoặc khổ sở về thể xác hay tinh thần cho một người;
– Thứ hai, hành vi tra tấn được thực hiện với lỗi cố ý;
– Thứ ba, ngoài việc nhằm lấy thông tin hay lời thú tội từ người bị tra tấn hay từ một người thứ ba, tra tấn còn có thể nhằm mục đích trừng phạt đối tượng tra tấn về một hành vi mà người đó hay người thứ ba đã thực hiện hoặc nghi ngờ đã thực hiện hoặc để đe dọa hoặc ép buộc người đó hay người thứ ba hoặc vì bất kỳ lý do gì khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức;
– Thứ tư, chủ thể thực hiện hành vi tra tấn là nhân viên công quyền hoặc người khác hành động với sự xúi giục, đồng tình, ưng thuận của nhân viên công quyền hoặc bất cứ người nào hành động trong phạm vi công vụ. Ở đây, nhân viên công quyền hoặc người khác đang thực hiện công vụ mà CAT đề cập ngoài Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán (kể cả các nhân viên khác của Tòa án) trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, thì còn có thể là Quản giáo trong giai đoạn THAPT hay những cán bộ khác có trách nhiệm công vụ. Đáng lưu ý, việc “đồng ý” hoặc “chấp thuận” của cán bộ cấp trên đối với nhân viên cấp dưới để hành vi tra tấn được thực hiện cũng bị coi là đồng phạm tra tấn.
Những hành vi tuy cũng gây ra đau đớn hoặc khổ sở cho con người nhưng xuất phát từ các hình phạt hợp pháp thì không coi là có lỗi và không xác định đó là tra tấn. Trong trường hợp này, việc gây đau đớn được coi là chính đáng như việc sử dụng vũ lực của Cảnh sát trong trường hợp ngăn chặn phạm nhân bỏ trốn, hay để bảo vệ người khác khỏi bị xâm hại bởi tội phạm, bạo lực đang diễn ra… Trong nghiên cứu lĩnh vực THAPT, nhận thức về vấn đề này có ý nghĩa to lớn nhằm tránh những lệch lạc hoặc lợi dụng vấn đề cấm tra tấn để đưa ra những nhận định xuyên tạc, bóp méo về công tác THAPT tại Việt Nam.
Điểm chú ý nữa là cần nhận diện sự khác biệt giữa tra tấn với hành vi đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục con người (như: điều kiện giam giữ, sinh hoạt của phạm nhân quá tồi tệ, sự làm ngơ của cán bộ trại giam trước hành vi đánh đập, ức hiếp giữa các phạm nhân với nhau). Tuy CAT không đưa ra định nghĩa về hành vi đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục con người và mỗi quốc gia có những cách hiểu khác nhau, song cần nhận thức và nhận diện hành vi tra tấn dựa trên tính thống nhất của bốn yếu tố cấu thành đã trình bày ở trên, nhất là yếu tố lỗi (cố ý), mục đích và chủ thể thực hiện hành vi tra tấn.
Để đảm bảo phòng ngừa, ngăn chặn, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh hành vi tra tấn cũng như giải quyết hậu quả của hành vi tra tấn, CAT quy định mỗi quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp lập pháp, hành pháp, tư pháp và các biện pháp khác để chống tra tấn (Điều 2 của Công ước). Các biện pháp nói trên được chỉ ra một cách cụ thể tại nhiều điều luật tiếp theo trong Công ước, trong đó đáng chú ý là, ngoài biện pháp tội phạm hóa hành vi tra tấn trong luật hình sự (Điều 4), xác lập các quy định về ngăn chặn tội phạm tra tấn, tiến hành điều tra khẩn trương và khách quan, truy tố, xét xử tội phạm tra tấn một cách nghiêm minh và việc không sử dụng thông tin có được do tra tấn để làm chứng cứ trong tố tụng (Điều 4, 5, 6, 7, 12 và 15), thì Công ước còn đặt ra nhiều đòi hỏi khác có liên quan đến lĩnh vực THAPT. Cụ thể:
– Phải bảo đảm tuyên truyền, giáo dục cấm tra tấn trong chương trình đào tạo quan chức thực thi pháp luật hay những người khác có liên quan đến việc giam giữ, thẩm vấn, đối xử với người bị bắt, giam giữ, cầm tù (khoản 1 Điều 10);
– Phải đưa quy định về cấm tra tấn vào các quy tắc, hướng dẫn công tác của những quan chức nói trên (khoản 2 Điều 10);
– Phải rà soát hệ thống các quy tắc, hướng dẫn, phương pháp và thực tiễn thẩm vấn, các cơ chế giam giữ và đối xử với người bị bắt, giam giữ, cầm tù nhằm ngăn chặn tra tấn (Điều 11);
– Người bị tra tấn có quyền khiếu nại và được cơ quan có thẩm quyền xem xét khẩn trương (Điều 13);
– Phải có biện pháp bảo vệ người khiếu nại và nhân chứng vụ tra tấn nhằm tránh sự ngược đãi hay hăm dọa (Điều 13);
– Nạn nhân của tra tấn phải được cứu chữa và bồi thường công bằng và thỏa đáng (Điều 14).
Tóm lại, trên bình diện luật nhân quyền quốc tế, CAT đã đưa ra một định nghĩa về tra tấn, trong đó bao hàm cả những trường hợp tra tấn trong THAPT, kèm theo đó là rất nhiều đòi hỏi đối với mỗi quốc gia thành viên về việc thực hiện những biện pháp cần thiết để chống tra tấn, trong đó có nhiều biện pháp liên quan mật thiết đến lĩnh vực THAPT.
1.2. Vấn đề cấm tra tấn trong Hiến pháp năm 2013
Cấm tra tấn là một nội dung cụ thể của quyền con người. Trong pháp luật, vấn đề cấm tra tấn không tách rời mà luôn được đặt trong mối quan hệ với các quyền con người. Với bề dày lịch sử và nền văn hiến lâu đời, dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay luôn có truyền thống yêu thương con người, đề cao phẩm giá con người và bảo vệ con người. Kể từ năm 1945, khi xóa bỏ chế độ phong kiến, xây dựng một Nhà nước mới vì độc lập, tự do, đến nay Việt Nam đã xây dựng lần lượt năm bản Hiến pháp. Mỗi bản Hiến pháp đều có những quy định về bảo vệ con người và phẩm giá con người. Càng về sau, sự quan tâm bảo vệ quyền con người càng lớn hơn, chi tiết hơn và đến Hiến pháp năm 2013 thì vấn đề cấm tra tấn lần đầu tiên được ghi nhận trực tiếp.
Hiến pháp năm 1946 lần đầu tiên xác lập nguyên tắc chống hành động tùy tiện, xâm phạm an ninh và tự do của con người trong hoạt động tố tụng ở Việt Nam: “Tư pháp không quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật”.[3]Mặc dù quy định này chưa trực tiếp đưa ra vấn đề cấm tra tấn nhưng đã gián tiếp thừa nhận con người có quyền tự do thân thể và không ai được xâm phạm an ninh và tự do thân thể con người, trừ những trường hợp hợp pháp (do tư pháp có thẩm quyền quyết định).
Đến Hiến pháp năm 1959, quyền tự do thân thể của con người đã được trực tiếp ghi nhận tại Điều 27 là “Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được bảo đảm. Không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Tòa án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân”. Tiến lên một bước nữa, Hiến pháp năm 1980 không chỉ tiếp tục khẳng định quyền bất khả xâm phạm thân thể con người mà còn “nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình” (Điều 69) và khẳng định “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm” (Điều 70). Đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), quyền bất khả xâm phạm thân thể của con người, quyền được pháp luật bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm con người, sự nghiêm cấm truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm công dân tiếp tục được khẳng định tại Điều 71. Ngoài ra, Điều 72 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) còn quy định vấn đề trừng trị người vi phạm và bồi thường cho người bị xâm hại: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”.
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã đạt được từ các bản Hiến pháp trước đó, Hiến pháp năm 2013 đã lần đầu tiên quy định cụ thể về cấm tra tấn. Khoản 5 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”.
Tuy vậy, cho đến nay trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa tồn tại một văn bản pháp luật nào giải thích hay đưa ra định nghĩa tra tấn là gì. Trong khi chờ đợi một định nghĩa chính thức, chúng ta vẫn có thể hình dung về tra tấn thông qua quan hệ gần gũi giữa nó với quyền bất khả xâm phạm thân thể, quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và vấn đề cấm truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm khi tất cả những vấn đề này được đặt trong cùng một điều luật với hành vi cấm tra tấn (khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013). Nhìn chung, các quy định này dù chưa phản ánh đầy đủ các nội dung và yêu cầu của CAT nhưng nó không trái với Công ước, đồng thời có tính thống nhất trong mục đích đấu tranh phòng, chống những hành vi gây đau đớn hoặc đau khổ về thể xác hay tinh thần cho con người một cách trái với pháp luật và trái với đạo lý.
1.3. Vấn đề cấm tra tấn trong pháp luật thi hành án phạt tù
Ở Việt Nam, pháp luật về THAPT là một bộ phận của pháp luật thi hành án hình sự (THAHS). Hệ thống quy phạm pháp luật THAPT biểu hiện cụ thể ở Chương III (Thi hành án phạt tù), các chương quy định chung của Luật THAHS năm 2010 và một số nghị định, thông tư… hướng dẫn chi tiết về công tác THAPT. Nhìn chung, nội dung pháp luật về THAPT bao gồm các quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan có thẩm quyền trong THAPT; quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án phạt tù; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong THAPT.
Đối chiếu nội dung quy định của CAT (nhất là những quy định, những đòi hỏi có liên quan đến lĩnh vực THAPT đã phân tích ở mục 1.1) với việc đề cao quyền con người của Hiến pháp năm 2013 và pháp luật THAPT hiện hành thì chúng tôi cho rằng những vấn đề sau đây cần được rà soát, xem xét:
Thứ nhất,về nguyên tắc và những hành vi bị nghiêm cấm trong THAPT, Luật THAHS năm 2010 chỉ quy định các nguyên tắc THAHS nói chung tại Điều 4, gồm có 8 khoản, có nghĩa là nguyên tắc THAPT (một loại án phạt hình sự cụ thể) cũng được bao hàm trong các nguyên tắc này. Trong số các nguyên tắc quy định tại Điều 4, đáng chú ý có nguyên tắc quy định tại khoản 3 là có liên quan trực tiếp đến vấn đề cấm tra tấn: “Bảo đảm nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án”. Thực chất, quy định này phản ánh ba vấn đề có tính độc lập tương đối, có thể được tách biệt, đó là:
– Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa;
– Nguyên tắc tôn trọng nhân phẩm người chấp hành án với tư cách là một con người, có các quyền con người cơ bản;
– Nguyên tắc tôn trọng các quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án với tư cách là một người đã bị hạn chế quyền công dân do đã bị kết án phạt tù.
Điều đáng nói là nội dung quy định tại khoản 3 Điều 4 chỉ đề cập vấn đề tôn trọng quyền con người của người chấp hành án ở một khía cạnh là “tôn trọng nhân phẩm”. Trong khi đó, người chấp hành án phạt tù mặc dù bị hạn chế rất nhiều quyền công dân nhưng vẫn có nhiều quyền con người cơ bản cần được tôn trọng và bảo vệ như: an ninh đối với tính mạng, sức khỏe của bản thân, chống bị tra tấn. Sẽ là phù hợp với tinh thần đề cao quyền con người và chống tra tấn trong Hiến pháp năm 2013 nếu khẳng định nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền con người cơ bản của người chấp hành án. Nội dung của nguyên tắc đó sẽ bao hàm cả yêu cầu chống tra tấn trong THAHS.
Luật THAHS năm 2010 quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong THAHS tại Điều 9, bao gồm 10 khoản, tương ứng với 10 nhóm hành vi bị nghiêm cấm. Trong 10 nhóm hành vi này, có 3 nhóm hành vi (khoản 1, 2 và 3) là quy định cấm đối với người chấp hành án và 7 nhóm hành vi còn lại là quy định cấm đối với cán bộ làm công tác THAHS. Các quy định cấm đối với người có trách nhiệm thi hành án dù chiếm ưu thế đến 7 khoản trong số 10 khoản nhưng không có quy định nào nói về cấm hành vi tra tấn hoặc đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục người chấp hành án. Chỉ khoản 9 Điều 9 có quy định cấm “xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án”, song quy định này còn chung chung, chưa thể hiện được yêu cầu chống tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục nhằm bảo vệ quyền con người cơ bản.
Thứ hai,về vấn đề quy tắc công tác và giáo dục về cấm tra tấn trong đào tạo cán bộ làm công tác THAPT, CAT đòi hỏi phải đưa quy định về cấm tra tấn vào các quy tắc, hướng dẫn công tác của người làm công tác THAPT và phải bảo đảm tuyên truyền, giáo dục cấm tra tấn ngay từ khi đào tạo họ.
Trong pháp luật THAPT Việt Nam, khoản 6 Điều 15 Thông tư số 16/2011/TT-BCA ngày 14/4/2011 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về công tác Cảnh sát Quản giáo quy định cấm quản giáo “có lời nói, hành vi xúc phạm, phân biệt đối xử, đánh đập, trù dập phạm nhân; tiết lộ bí mật đời tư của phạm nhân không đúng quy định”.Mặc dù chưa trực tiếp có điều khoản cấm “tra tấn” nhưng rõ ràng nội dung quy định nêu trên đã gắn liền với nội dung, yêu cầu chống tra tấn trong Công ước. Song, cần chú ý rằng người làm công tác THAPT không phải chỉ gồm lực lượng Cảnh sát Quản giáo mà còn có lực lượng Trinh sát trại giam, Cảnh sát Bảo vệ trại giam, Cảnh sát Cơ động, lực lượng làm công tác giáo dục, hồ sơ phạm nhân, tổ chức lao động sản xuất và dạy nghề. Tất cả những lực lượng này đều trực tiếp tiếp xúc với phạm nhân trong quá trình công tác. Thông tư số 16/2011/TT-BCA ngày 14/4/2011 của Bộ trưởng Bộ Công an tuy là một văn bản pháp luật nhưng nó chỉ phổ biến trong phạm vi đối tượng nhất định, đó là các cán bộ chiến sĩ Công an làm công tác Quản giáo và các cán bộ lãnh đạo, chỉ huy công tác này trong lực lượng Công an nhân dân. Nó không phải là một văn bản phổ biến công khai, rộng rãi trên các kênh thông tin pháp luật để mọi người đều có thể tiếp cận. Đến nay chưa có một văn bản pháp luật nào quy định quy tắc công tác chung của lực lượng làm công tác THAPT, trong có có quy định cấm tra tấn.
Về đào tạo cán bộ làm công tác THAPT, Luật THAHS năm 2010 đã có một số quy định nêu rõ tiêu chuẩn để làm cán bộ THAHS và yêu cầu đào tạo những cán bộ này. Khoản 4 Điều 16 Luật THAHS năm 2010 quy định: “Giám thị, Phó giám thị, Trưởng phân trại, Phó trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng phải là người đã tốt nghiệp đại học cảnh sát, đại học an ninh, đại học luật trở lên và bảo đảm các tiêu chuẩn khác theo quy định của Chính phủ”. Về yêu cầu đào tạo, khoản 2 Điều 144 Luật THAHS năm 2010 quy định: “Người làm công tác THAHS phải được đào tạo, huấn luyện chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng pháp luật phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn được giao”. Trên thực tế, phần lớn cán bộ chiến sĩ làm công tác THAHS (trong đó số làm công tác THAPT chiếm tỉ lệ rất lớn) được đào tạo chuyên khoa về công tác trại giam ở các trường Công an nhân dân theo hai bậc: trung cấp chuyên nghiệp và đại học. Nội dung chương trình đào tạo chủ yếu là ba khối kiến thức cơ bản: chính trị, pháp luật và nghiệp vụ chuyên ngành. Trong khối kiến thức pháp luật có môn luật THAHS, còn trong khối kiến thức nghiệp vụ chuyên ngành có giảng dạy những quy tắc công tác. Như thế, nếu là học viên chuyên ngành Giáo dục cải tạo phạm nhân thì sẽ được học quy định về cấm “có lời nói, hành vi xúc phạm, phân biệt đối xử, đánh đập, trù dập phạm nhân; tiết lộ bí mật đời tư của phạm nhân không đúng quy định”nói trên. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận sự thật là vấn đề cấm tra tấn chưa được đánh giá đúng mức về vai trò và ý nghĩa của nó và chưa bao giờ được giảng dạy với tư cách là một chuyên đề pháp luật quan trọng trong chương trình đào tạo cán bộ làm công tác THAHS.
Thứ ba, vấn đề giam giữ và đối xử với phạm nhân, CAT đòi hỏi phải rà soát và hoàn thiện cơ chế giam giữ và đối xử với phạm nhân để đảm bảo chống tra tấn. Luật THAHS năm 2010 và các văn bản hướng dẫn khác đã có nhiều quy định khá rõ ràng về việc tổ chức giam giữ và các chế độ đối xử với phạm nhân. Về cơ bản, các chế độ này đã được thực hiện tốt. Về chế độ đối xử với phạm nhân, có ba nhóm chế độ: chế độ về giáo dục cải tạo (quy định về việc học tập, học nghề, lao động và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân), chế độ sinh hoạt và chăm sóc sức khỏe (ăn, mặc, hoạt động thể dục thể thao, văn hóa văn nghệ, chăm sóc y tế) và chế độ thông tin, liên lạc, tiếp tế, thăm gặp. Trong tổ chức giam giữ, phạm nhân được phân loại và giam giữ theo loại phạm nhân. Căn cứ để phân loại phạm nhân là dựa vào tổng hợp bốn yếu tố: tính chất của tội phạm, mức hình phạt, đặc điểm nhân thân của phạm nhân và kết quả chấp hành án tại trại giam. Dựa trên kết quả phân loại, cơ bản phạm nhân được bố trí giam giữ thành hai khu. Khu I giam giữ số phạm nhân có mức án tù trên 15 năm, tù chung thân, phạm nhân thuộc loại tái phạm nguy hiểm, phạm nhân tuy có mức án từ 15 năm tù trở xuống nhưng có tính chất nguy hiểm, chống đối, cải tạo kém mà cần phải phân loại đặc biệt để giam giữ. Khu II giam giữ số phạm nhân còn lại. Một số buồng giam hay phân khu được bố trí để giam riêng phạm nhân nữ, phạm nhân chưa thành niên, phạm nhân là người nước ngoài, người có bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm… theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật THAHS năm 2010. Ngoài ra, còn có khu giam giữ riêng đối với phạm nhân chống đối, đặc biệt nguy hiểm và có buồng giam kỷ luật đối với phạm nhân bị kỷ luật theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 38 Luật THAHS năm 2010. Điều kiện giam giữ ở những buồng giam riêng này thể hiện sự đối xử nghiêm khắc hơn, có tính trừng trị. Buồng giam riêng chỉ giam tối đa 8 phạm nhân, diện tích nhỏ vừa đủ; buồng giam kỷ luật hẹp hơn nữa, có thể áp dụng cùm chân.
Tuy vậy, từ yêu cầu chống tra tấn và bảo vệ quyền con người, việc giam giữ và chế độ đối xử với phạm nhân ở Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau đây:
– Điểm d khoản 2 Điều 27 Luật THAHS năm 2010 quy định phải bố trí giam giữ riêng đối với phạm nhân là người có“bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm”, nhưng trong các văn bản hướng dẫn luật chưa có quy định nào hướng dẫn bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm là những bệnh nào, dẫn đến khả năng phạm nhân thực tế mắc bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm mà vẫn không được tách riêng và gây nguy hiểm cho sức khỏe của phạm nhân khác bị giam chung với phạm nhân mắc bệnh hoặc trở thành điểm sơ hở để lợi dụng thực hiện hành vi tra tấn. Vì lý do nào đó, cán bộ trại giam muốn tra tấn một phạm nhân hay một người thứ ba có liên hệ với phạm nhân đó thì có thể thực hiện bằng cách giam chung phạm nhân đó với phạm nhân khác là người bị mắc bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm. Trong số các văn bản hướng dẫn luật THAHS có hai văn bản đã giải thích hai khái niệm tương đối gần, là khái niệm “mắc bệnh hiểm nghèo” và “bệnh nặng”,đó là Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/5/2013 Hướng dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BYT ngày 15/5/2013 Hướng dẫn thi hành quy định về tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân. Cả hai khái niệm “mắc bệnh hiểm nghèo” và “bệnh nặng” đều được giải thích cùng một nghĩa như nhau, bao gồm những bệnh: ung thư giai đoạn cuối, liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội… Trong số những bệnh kể trên, có thể nhận thấy có hai bệnh có tính truyền nhiễm là bệnh lao nặng và bệnh nhiễm HIV. Những bệnh còn lại tuy là bệnh nặng, gây nguy hiểm đến tính mạng nhưng không hẳn là bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm. Rõ ràng, khái niệm “bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm” khác với “bệnh hiểm nghèo” và “bệnh nặng”.
– Điểm đ khoản 2 Điều 27 Luật THAHS năm 2010 quy định phải bố trí giam giữ riêng đối với phạm nhân có dấu hiệu bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình trong thời gian chờ quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, theo pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật THAHS hiện hành, Giám thị trại giam, trại tạm giam không có quyền trưng cầu giám định tư pháp. Điều này gây ra nhiều khó khăn trong thực tiễn giam giữ phạm nhân và cũng có thể trở thành điểm sơ hở để lợi dụng thực hiện hành vi tra tấn. Vì lý do nào đó, cán bộ trại giam muốn tra tấn một phạm nhân hay một người thứ ba có liên hệ với phạm nhân đó thì có thể thực hiện bằng cách giam chung phạm nhân đó với phạm nhân khác là người bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình mà thực tế người bệnh đó thường thực hiện những hành vi tấn công, gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của những người xung quanh.
– Do khó khăn về kinh phí, điều kiện cơ sở vật chất nên hiện nay các trại giam chưa có đủ điều kiện bố trí giám sát mọi khu vực trại giam. Hầu hết các trại giam chỉ ưu tiên bố trí máy ghi hình (camera) để giám sát các hoạt động diễn ra ở khu giam giữ riêng, khu giam I và một số buồng giam những phạm nhân phân loại đặc biệt khác.
Thứ tư,về vấn đề quyền khiếu nại của phạm nhân và quyền được bảo vệ của phạm nhân do đã khiếu nại hoặc làm nhân chứng trong vụ tra tấn, theo quy định của Điều 150, 152, 154 Luật THAHS năm 2010 thì người chấp hành án phạt tù có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khiếu nại với Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp quân khu, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp huyện về quyết định, hành vi trái pháp luật trong quản lý, giáo dục phạm nhân của người được giao (nhiệm vụ) quản lý, giáo dục phạm nhân trong thời hiệu 30 ngày (đối với khiếu nại lần đầu) kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định, hành vi đó. Để thực hiện việc khiếu nại một vấn đề nào đó (chẳng hạn việc mình bị cán bộ trại giam tra tấn) người chấp hành án phạt tù phải viết đơn khiếu nại và gửi đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nói trên (nếu là tự mình khiếu nại) hoặc trước hết phải thông tin cho người đại diện hợp pháp bên ngoài trại giam để thống nhất thực hiện việc khiếu nại. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 47 Luật THAHS năm 2010 thì mọi thư, điện tín, liên lạc của phạm nhân cả chiều đi và đến đều bị kiểm tra, kiểm duyệt bởi trại giam. Cơ chế này không đảm bảo tính khách quan, dân chủ trong việc tạo điều kiện cho phạm nhân thực hiện quyền khiếu nại, đồng thời không đảm bảo tính an toàn trong việc bảo vệ phạm nhân do đã gửi đơn khiếu nại một hành vi nào đó của cán bộ trại giam có thể bị coi là tra tấn hay trái pháp luật hoặc do đã chứng kiến, biết được tình tiết của vụ tra tấn và có thể trở thành người làm chứng.
Thứ năm, vấn đề bồi thường thiệt hại do bị tra tấn cho phạm nhân: tra tấn hoàn toàn có thể xảy ra trong trại giam và nếu thực tế qua giải quyết khiếu nại hay bằng cách khác mà xác định một phạm nhân nào đó đã bị tra tấn thì đương nhiên phạm nhân đó phải được bồi thường thiệt hại do bị tra tấn. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 39 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 về phạm vi trách nhiệm bồi thường, trong hoạt động THAHS không có quy định về trường hợp bồi thường do bị tra tấn trong quá trình chấp hành án phạt tù. Đây là một thiếu sót.
Xem thêm bài viết về “Người đang chấp hành án phạt tù”
- Một số vấn đề chung về quyền con người của người chấp hành án phạt tù theo yêu cầu cải cách tư pháp – TS. Lê Hữu Trí
- Thực trạng về tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù – TS. Ngô Hữu Phước
- Hoàn thiện quy định của pháp luật về tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù – TS. Lê Hữu Trí
2. Định hướng hoàn thiện pháp luật thi hành án phạt tù đáp ứng yêu cầu của Công ước của Liên hợp quốc về Chống tra tấn và Hiến pháp năm 2013
Trên cơ sở những đòi hỏi của CAT, tinh thần đề cao bảo vệ quyền con người, chống tra tấn của Hiến pháp năm 2013 và từ những điểm hạn chế trong pháp luật THAPT đã phân tích, trong thời gian tới cần hoàn thiện pháp luật về THAPT theo những hướng sau đây:
– Hoàn thiện các nguyên tắc THAHS theo hướng: tách nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa quy định tại khoản 3 Điều 4 thành một nguyên tắc độc lập ở một điều khoản, đồng thời phần nội dung còn lại trong khoản 3 Điều 4 (tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án) sẽ vừa tách độc lập vừa bổ sung để tạo thành nguyên tắc “tôn trọng, bảo vệ các quyền con người cơ bản và các quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án”. Nội dung của nguyên tắc này sẽ bao hàm cả yêu cầu chống tra tấn người chấp hành án.
– Bổ sung hành vi tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người vào danh mục những hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Điều 9 Luật THAHS năm 2010.
– Hướng dẫn khái niệm “bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm”đã quy định tại điểm d khoản 2 Điều 27 Luật THAHS năm 2010 để trên cơ sở đó cơ quan THAPT có căn cứ xác định đúng đắn và kịp thời bố trí giam giữ riêng đối với phạm nhân là người có bệnh này, tránh lây nhiễm gây nguy hại cho sức khỏe của phạm nhân khác cũng như để phòng chống việc lợi dụng những quy định thiếu rõ ràng về cách ly phạm nhân có bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm để tra tấn.
– Cần bổ sung quyền trưng cầu giám định tư pháp trong hoạt động THAHS cho Giám thị trại giam để tạo điều kiện cho họ có khả năng kịp thời xác định phạm nhân là người có “bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm”hoặc bị “bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình”mà áp dụng chế độ giam giữ riêng một cách kịp thời và đúng đắn, phòng chống tra tấn.
– Cần sửa đổi Điều 47 Luật THAHS năm 2010 theo hướng: đối với thư gửi đi hay thư đến (nhận) giữa phạm nhân với Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp quân khu, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp huyện (ghi rõ ngoài bì thư) thì Giám thị không được quyền kiểm tra, kiểm duyệt nhằm bảo đảm điều kiện an toàn cho phạm nhân khi thực hiện quyền khiếu nại hoặc làm nhân chứng trong vụ tra tấn.
– Bổ sung quy định tại Điều 39 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 về phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động THAHS. Trong đó, quy định rõ trường hợp bồi thường cho người chấp hành án do bị tra tấn trong quá trình chấp hành án phạt tù.
Ngoài việc sửa đổi, bổ sung một số quy định trong pháp luật THAPT đề xuất ở trên, cần kết hợp thực hiện một số giải pháp khác để phòng chống tra tấn xảy ra trong trong công tác THAPT, đó là:
– Thứ nhất, cần đưa nội dung cấm tra tấn vào chương trình đào tạo về nghiệp vụ cán bộ THAPT, cấu thành một chuyên đề độc lập với dung lượng từ một đến hai học trình;
– Thứ hai, cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn chuyên đề về chống tra tấn cho cán bộ chiến sĩ làm công tác THAPT tại các trại giam, trại tạm giam và kịp thời phát hiện, nhanh chóng điều tra làm rõ và xử lý nghiêm minh mọi hành vi tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người theo quy định của pháp luật;
– Thứ ba, khi điều kiện kinh tế, tài chính cho phép thì các trại giam cần trang bị và bố trí hệ thống máy ghi hình để theo dõi, giám sát mọi hoạt động diễn ra ở mọi khu vực trong trại giam nhằm đảm bảo phòng chống tra tấn và bảo vệ trại giam an toàn.
CHÚ THÍCH
* ThS, Trung tá, Phó Trưởng Phòng Khảo thí và đảm bảo chất lượng đào tạo, trường Trung cấp CSND 6, Bộ Công an.
** Giảng viên, Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Theo khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013.
[2] Trung tâm nghiên cứu quyền con người (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, Hà Nội, 2002, tr. 358.
[3] Điều 11 Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Tác giả: ThS. Nguyễn Quang Vũ & ThS. Lê Thị Anh Nga
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04(98)/2016 – 2016, Trang 49-56
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời