Trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại gây ô nhiễm môi trường – Thực trạng và một số kiến nghị
Tác giả: Nguyễn Thanh Mai [1]
TÓM TẮT
Thực hiện đường lối đổi mới và phát triển toàn diện đất nước, Đảng, Nhà nước ta, những năm vừa qua các doanh nghiệp của Việt Nam, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp trong nước ngày càng phát triển, không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và quy mô về vốn, công nghệ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đem lại, cũng có nhiều nguy cơ, thách thức đặt ra, trong đó có thách thức về môi trường. Một số pháp nhân thương mại trong sản xuất, kinh doanh, nhằm giảm thiểu chi phí sản xuất, tăng doanh thu… đã triệt để lợi dụng mọi kẽ hở pháp luật, yếu kém trong quản lý, tập trung khai thác lợi thế cạnh tranh bằng tài nguyên sẵn có, sử dụng máy móc thiết bị cũ, lạc hậu, công nhân có tay nghề thấp, nguyên liệu đầu vào giá rẻ… Hậu quả tất yếu là tài nguyên của quốc gia đang dần cạn kiệt, môi trường tự nhiên bị hủy hoại, sức khỏe của người dân, cộng đồng bị ảnh hưởng, an ninh môi trường, an ninh đầu tư và tính bền vững của nền kinh tế đất nước bị đe dọa. Vì vậy, đã đến lúc pháp luật cần có những chế tài đủ mạnh để răn đe, ngăn chặn các pháp nhân thương mại có hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, đồng thời khôi phục những thiệt hại đang hiện hữu… Trong phạm vi bài viết, chúng tôi chỉ đề cập đến trách nhiệm pháp lý hình sự đối với pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật, nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm đều được phát hiện và xử lý nghiêm trước pháp luật.
1. Trách nhiệm pháp lý hình sự của pháp nhân thương mại đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh
Pháp nhân thương mại Chủ thể có hành vi gây ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh bao gồm hai loại là cá nhân (con người tự nhiên) và pháp nhân (con người của pháp luật). Về mặt lý luận, pháp nhân là một tổ chức tồn tại vì một mục tiêu nào đó và có những yếu tố pháp lí cho phép phân biệt pháp nhân đó với các thành viên của pháp nhân và với các chủ thể khác. Việc xác lập tư cách pháp nhân cho một tổ chức có mối liên hệ mật thiết đến khả năng tự chịu trách nhiệm độc lập về tài sản của tổ chức đó và sự nhân danh chính tổ chức đó tham gia vào các quan hệ xã hội một cách độc lập, vì lợi ích của chính nó. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi đáp ứng các điều kiện sau: (i) Được thành lập theo quy định của pháp luật; (ii) Có cơ cấu tổ chức phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân; (iii) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; (iv) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập2. Căn cứ vào mục tiêu hoạt động, pháp nhân gồm có hai loại là: pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên là đặc điểm mấu chốt để phân biệt hai loại pháp nhân này. Theo đó, pháp nhân thương mại có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên, còn pháp nhân phi thương mại không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận; nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên như pháp nhân là cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác3.
Pháp nhân thương mại bao gồm các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác4. Tuy vậy, không phải tất cả các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế đang hoạt động trong nền kinh tế đều là pháp nhân thương mại mà chỉ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế đáp ứng điều kiện để trở thành pháp nhân và/hoặc được luật điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của nó ghi nhận là pháp nhân thì mới là pháp nhân thương mại. Theo quy định của pháp luật hiện hành5, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế không phân biệt tính chất sở hữu và nguồn vốn đầu tư được tổ chức dưới các loại hình như công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã đều là các pháp nhân thương mại. Trong khi đó, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh, tổ hợp tác là những doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh nhưng không được pháp luật ghi nhận là pháp nhân. Vì thế loại chủ thể này không thuộc phạm vi và đối tượng nghiên cứu trong bài viết này.
Như vậy, các doanh nghiệp và hợp tác xã là pháp nhân thương mại có tư cách chủ thể độc lập khi tham gia các quan hệ pháp luật, sẽ thụ hưởng quyền và gánh vác các nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật. Các pháp nhân thương mại là các chủ thể kinh doanh chủ yếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và tất nhiên cũng là chủ thể chủ yếu của hành vi gây ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hành vi gây ô nhiễm môi trường của pháp nhân thương mại trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hành vi gây “ô nhiễm môi trường” của pháp nhân thương mại, trước hết xét dưới góc độ sinh học chính là những hành vi chôn, lấp, thải, xả thải, đổ thải ra môi trường dẫn đến tình trạng làm cho các chỉ số hóa học, lý học của môi trường bị thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Sự thay đổi này đã làm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con người và sinh vật, làm thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng và tài sản của các tổ chức, cá nhân khác. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), sự gây ô nhiễm môi trường được hiểu là sự đưa vào môi trường các chất thải hoặc năng lượng độc hại đến mức gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống sinh vật, sức khỏe con người hoặc làm suy giảm môi trường6. Xét dưới khía cạnh pháp lý, hành vi gây ô nhiễm môi trường “là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật”7. Trong đó có các dạng gây ra ô nhiễm môi trường đất, ô nhiễm môi trường nước, ô nhiễm môi trường không khí.
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại gây ô nhiễm môi trường được hiểu là hậu quả pháp lý bất lợi mà pháp nhân phạm tội phải gánh chịu và được thể hiện bằng việc Tòa án áp dụng hình phạt và các biện pháp cưỡng chế khác, được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018 đối với pháp nhân thương mại phạm tội gây ô nhiễm môi trường trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đây là hình thức trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất. Tính chất nghiêm khắc vượt trội của trách nhiệm hình sự thể hiện ở chỗ pháp nhân thương mại phạm tội sẽ bị Tòa án kết án và phải chịu hình phạt và các biện pháp tư pháp. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Luật hình sự, không chỉ hạn chế quyền tự do, quyền tài sản, quyền chính trị, thậm chí còn có thể chấm dứt vĩnh viễn sự hoạt động của pháp nhân thương mại phạm tội. Theo đó, khi pháp nhân thương mại phạm tội xâm phạm đến môi trường có thể phải chịu hậu quả pháp lý là hình phạt chính, bao gồm: phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Ngoài hình phạt chính, pháp nhân thương mại còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn, phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính. Có thể thấy rằng, trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại nói chung và pháp nhân thương mại phạm tội gây ô nhiễm môi trường nói riêng, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018.
2. Thực trạng xử lý hình sự hành vi gây ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các pháp nhân thương mại ở Việt Nam
Số liệu của Tổng cục Thống kê, cho đến nay có đến 80% khu công nghiệp Việt Nam đang vi phạm pháp luật về môi trường, trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm tới 60% trên tổng các doanh nghiệp xả thải vượt tiêu chuẩn8. Không ít doanh nghiệp FDI mang công nghệ bị cấm sử dụng ở nước mình sang Việt Nam, nơi có tiêu chuẩn môi trường thấp hơn để tiếp tục vòng đời công nghệ, tận dụng chi phí đầu tư môi trường thấp, các loại thuế, phí đánh vào môi trường cũng thấp hơn ở công ty mẹ. Mỗi năm, Việt Nam thiệt hại do ô nhiễm môi trường tương đương với 5% GDP, trong khi con số này của Trung Quốc là 10%. Tuy nhiên, nếu ô nhiễm môi trường theo đà gia tăng như hiện nay, thì Việt Nam có thể sẽ vượt qua Trung Quốc về ô nhiễm trong thời gian tới9. Từ năm 2008 đến 2018 Cục Cảnh sát môi trường đã phát hiện và xử lý 124.226 vụ vi phạm về gây ô nhiễm môi trường. Trong đó, xử lý hình sự 2.847 vụ, số vụ còn lại xử phạt hành chính10. Tuy nhiên, không có vụ án hình sự nào xử lý đối với pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường, nguyên do là Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 không quy định pháp nhân là chủ thể của tội phạm, do đó nếu pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường ở thời điểm này thì cũng chỉ bị xử phạt hành chính, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự quy định trách nhiệm hình sự đối với tổ chức pháp nhân thương mại phạm tội. Điều này đã làm thay đổi tư duy có tính truyền thống về tội phạm và hình phạt, đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống các hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện ở Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý trong hợp tác quốc tế đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Sau hơn ba năm có hiệu lực, với nhiều vụ án về môi trường đã được khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử, nhưng có một thực trạng là chưa có vụ án hình sự nào được Cơ quan điều tra khởi tố bị can đối với pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường (Báo cáo Cục thống kê Viện kiểm sát nhân dân tối cao). Nguyên nhân nào dẫn đến việc không thể khởi tố bị can đối với pháp nhân thương mại, trong khi thực tiễn có nhiều bị can là cá nhân bị khởi tố liên quan đến hành vi gây ô nhiễm môi trường? Nguyên nhân có nhiều, cả về góc độ quy định của pháp luật chưa chặt chẽ và chưa toàn diện, cũng như góc độ thực tiễn có nhiều bất cập.
Thực tế rất khó chứng minh, làm rõ được các yếu tố là điều kiện cần và đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, là do: Một là, cơ quan điều tra đã không chứng minh được hành vi phạm tội gây ô nhiễm môi trường nhân danh pháp nhân thương mại (Bởi lẽ hoạt động này là trái luật nên thực tế nó thường được chỉ đạo bằng miệng và ngấm ngầm thực hiện); Hai là, rất khó chứng minh được hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại, cũng như được chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại. Các hoạt động trái luật thường không có quyết định hoặc không có biên bản lưu giữ thông tin này, nên thực tế quá khó để chứng minh và làm rõ hai vấn đề này.
Điều này đã làm cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh đã bất chấp mọi thủ đoạn, tiếp tục có hành vi gây ô nhiễm môi trường mà không sợ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Từ thực trạng này đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về các hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại gây ô nhiễm môi trường, đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện và xử lý nghiêm minh trước pháp luật, đảm bảo môi trường sống an toàn cho các tổ chức, cá nhân, tránh gây ra những tổn thất, thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân đó.
3. Kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm pháp lý hình sự đối với pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường
Để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội có hành vi gây ra ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định rõ các pháp nhân thương mại này đã bất chấp sự an toàn của môi trường sống gây ô nhiễm môi trường, như: Chôn, lấp, đổ thải bừa bãi ra môi trường; Mua bán, kinh doanh các loại chất thải độc hại ra môi trường như: Chất phóng xạ, bức xạ vượt quá ngưỡng cho phép; Phát tán các chất thải độc hại ra môi trường sống… gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến chế độ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, gây thiệt hại nghiêm trọng đến môi trường sống. Thực tiễn việc xử lý các pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, sau hơn 03 năm Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018 chưa có pháp nhân thương mại nào bị khởi tố bị can, do quy định của pháp luật còn nhiều điểm bất cập, gây khó khăn trong hoạt động chứng minh tội phạm, cần nghiên cứu và hoàn thiện, cụ thể:
3.1. Kiến nghị về giải pháp xử lý pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường
Thứ nhất, để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại về tội gây ô nhiễm môi trường, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định chính xác hậu quả cũng như thiệt hại mà hành vi phạm tội gây ra đối với môi trường sống an toàn cần phải được đảm bảo.
Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải ra quyết định: Trưng cầu giám định chuyên môn, xác định chính xác về việc: Các chất thải, nước thải, bụi, khí thải, chất độc hại, chất bức xạ, khúc xạ, nhiễu xạ, phóng xạ mà các pháp nhân thương mại gây ra trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh… đã gây nguy hại như thế nào đối với môi trường sống (môi trường nước, môi trường không khí…). Kết luận giám định cũng phải nêu rõ: Các thông số kỹ thuật an toàn cho môi trường đã vượt quá ngưỡng bao nhiêu; Hủy diệt môi trường sống ra sao; Chất phóng xạ gây nhiễm xạ… có ở mức vượt quy chuẩn kỹ thuật hoặc vượt mức giới hạn cho phép hay không, có ảnh hưởng như thế nào đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của các tổ chức, cá nhân khác… Ngoài ra, các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định được thời điểm pháp nhân thương mại gây ra hậu quả đó, đặc biệt cần chứng minh về mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa hành vi gây ô nhiễm môi trường và hậu quả gây ra đối với các tổ chức, cá nhân khác. Yếu tố quan hệ nhân quả này là hết sức quan trọng, nếu giữa hành vi và hậu quả không có mối quan hệ nhân quả trực tiếp thì hậu quả xảy ra không liên quan đến hành vi khách quan, do đó việc buộc tội đối với pháp nhân thương mại phải trên cơ sở đánh giá tổng thể các yếu tố và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Qua đó làm căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can, điều tra, truy tố, xét xử đối với pháp nhân thương mại có hành vi phạm tội gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, hiện nay việc quy định này chưa được đầy đủ và thực tế việc xác định tải lượng này với môi trường nước, môi trường không khí không hề dễ dàng, sự lan tỏa các chất trong môi trường không khí hay môi trường nước nhanh, nếu không phát hiện và lấy mẫu kịp thời thì rất khó có thể xác định được. Do đó nhiều vụ việc đã không thể áp dụng chế tài hình sự để xử lý những trường hợp pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường được mà phải chuyển sang biện pháp xử lý khác.
Thứ hai, nhiều trường hợp mặc dù pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường nhưng thuộc trường hợp “bất khả kháng” của sự kiện khách quan buộc pháp nhân thương mại có hành vi bị coi là tội phạm, thì cũng không thể truy cứu trách nhiệm đối với pháp nhân thương mại trong trường hợp này được. Hoặc khi pháp nhân thương mại thực hiện hành vi gây ô nhiễm môi trường với lỗi vô ý thì cũng không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại, do phạm vi quy định các điều luật mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 76 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 không đặt ra đối với lỗi vô ý. Vấn đề “lỗi” đặt ra với pháp nhân thương mại thực hiện hành vi gây ô nhiễm môi trường hiện nay cũng nhiều quan điểm và ý kiến trái chiều, thiết nghĩ cũng cần nghiên cứu và hoàn thiện chế định “lỗi” trong Bộ luật hình sự cho phù hợp.
Thứ ba, thực tế hiện nay các công ty, doanh nghiệp là pháp nhân, khi thành lập đăng ký ngành nghề không có mục tiêu vì lợi nhuận do đó được xác định không phải là pháp nhân thương mại, sau đó quá trình hoạt động doanh nghiệp đã thay đổi, bổ sung ngành nghề kinh doanh có đối tượng kinh doanh có mục tiêu lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên của công ty. Khi những pháp nhân này thực hiện hành vi phạm tội thì có bị xác định là pháp nhân thương mại không? Điều luật hiện nay không quy định nên vấn đề này cũng đặt ra cần nghiên cứu và hoàn thiện.
Thứ tư, đối với pháp nhân thương mại khi hoạt động sản xuất, kinh doanh thì thương hiệu, uy tín và danh tiếng trên thương trường là điều doanh nghiệp nào cũng đặt ra mục tiêu hướng tới, để thu hút nhà đầu tư, bạn hàng và người tiêu dùng… những điều này chính là tài sản tinh thần vô giá được xây dựng qua nhiều năm tháng, sự đánh giá của cộng đồng, xã hội… Kinh nghiệm trong pháp luật hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới như: Cộng hòa Pháp, Hà Lan, Bỉ… đều quy định hình phạt “Niêm yết bản án, quyết định đã được Tòa án tuyên hoặc thông báo bản án, quyết định đó trên các phương tiện nghe nhìn” để răn đe, cảnh tỉnh đối với các pháp nhân khác và bản thân pháp nhân đã phạm tội. Trong khi đó, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 không đặt ra quy định hình phạt này. Cần sửa đổi, bổ sung thêm hình phạt bổ sung này cho các pháp nhân thương mại có hành vi phạm tội Gây ô nhiễm môi trường nói riêng, có hành vi phạm tội thuộc các loại tội phạm khác nói chung.
3.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật
Thứ nhất, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 chưa có quy định về miễn trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội trong luật, mà chỉ áp dụng đối với cá nhân phạm tội. Có thể thấy rằng việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội xuất phát từ việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân người đại diện cho pháp nhân về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Nếu cá nhân người đại diện cho pháp nhân đáp ứng các điều kiện để được miễn trách nhiệm hình sự theo luật định, thì pháp nhân thương mại vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự vì không có quy định nào thể hiện việc pháp nhân thương mại phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự. Do vậy, chưa đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trước pháp luật đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi phạm tội.
Thứ hai, Điều 78 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về hình phạt “Đình chỉ hoạt động có thời hạn” đối với pháp nhân thương mại phạm tội như sau: “Đình chỉ hoạt động có thời hạn là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế” (Khoản 1). Quy định này chưa thật sự chính xác, nếu đã gây thiệt hại đến “tính mạng” mà hậu quả gây ra lại “có khả năng khắc phục trên thực tế” là mâu thuẫn, không chính xác, vì gây thiệt hại đến tính mạng rõ ràng không thể khắc phục được. Điều này cũng đặt ra cần nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của pháp luật.
Từ việc nghiên cứu thực trạng về hành vi gây ô nhiễm môi trường, cũng như thực trạng xử lý đối với các pháp nhân thương mại có hành vi trên, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về trách nhiệm pháp lý hình sự đối với pháp nhân thương mại có hành vi gây ô nhiễm môi trường, nhằm đảm bảo mọi hành vi này đều phải bị xử lý nghiêm, không một doanh nghiệp nào có ý định vi phạm, hướng tới một xã hội văn minh, đảm bảo tốt an ninh môi trường./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sỹ, Giảng viên Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp.
- Điều 74 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Khoản 2 Điều 76 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Khoản 2 Điều 75 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Luật doanh nghiệp năm 2020, Luật hợp tác xã năm 2012, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010…
- Cục Cảnh sát môi trường (2013), Cẩm nang Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường Tập 2, Nxb. Công an nhân dân, tr. 321.
- Khoản 8 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2014.
- Ngọc Hà Ngọc An, 80% khu công nghiệp tại VN vi phạm môi trường?, https://tuoitre.vn/80khucongnghiep taivnviphammoitruong1222618.htm, truy cập ngày 28/6/2020.
- Nguyễn Xuân Thái, Ô nhiễm môi trường, hiểm họa của con người, http://vuit.org.vn/tintuc/t3315/onhiemmoi truonghiemhoacuaconnguoi.html, truy cập ngày 28/6/2020.
- Báo cáo tổng kết của Cục Cảnh sát môi trường BCA năm 2018.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Cục Cảnh sát môi trường (2013), Cẩm nang Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường Tập 2, Nxb. Công an nhân dân.
- Ngọc Hà Ngọc An, 80% khu công nghiệp tại VN vi phạm môi trường?, https://tuoitre.vn/80khucongnghieptaivnvi phammoitruong1222618.htm, truy cập ngày 28/6/2020.
- Nguyễn Xuân Thái, Ô nhiễm môi trường, hiểm họa của con người, http://vuit.org.vn/tin tuc/t3315/onhiemmoitruonghiemhoacua connguoi.html, truy cập ngày 28/6/2020.
- Báo cáo tổng kết của Cục Cảnh sát môi trường BCA năm 2017.
Trả lời