Mục lục
Tội phạm hoàn thành là gì? Ý nghĩa của việc xác định tội phạm hoàn thành
Tác giả: Nguyễn Ngọc Hòa
1. Tội phạm hoàn thành là gì?
Các tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự đều được đặt tội danh và được mô tả bằng các dấu hiệu đặc trưng. Đó là các dấu hiệu pháp lý của tội phạm và những dấu hiệu này tạo thành cấu thành tội phạm của mỗi tội danh. Khi hành vi cụ thể xảy ra thoả mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm thì người thực hiện hành vi đó được xác định đã phạm tội mà cấu thành tội phạm này phản ánh như phạm tội cướp tài sản (Điều 168 Bộ luật Hình sự) hay phạm tội vô ý làm chết người (Điều 128 Bộ luật Hình sự) v.v.. và phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đã thực hiện. Tuy nhiên, không phải chỉ khi hành vi thoả mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm thì người thực hiện hành đó mới được xác định là phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đã phạm đó. Đối với các tội có lỗi cố ý trực tiếp, có thể có trường hợp hành vi tuy chưa thoả mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhưng chủ thể thực hiện hành vi này vẫn bị xác định là phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự. Để phân biệt giữa trường hợp hành vi phạm tội thoả mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với trường hợp chưa thoả mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm như vậy, luật hình sự có các khái niệm: Tội phạm hoàn thành, phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội. Trong đó, chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt được gọi chung là tội phạm chưa hoàn thành.
“Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thoả mãn tất cả dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm”.
Xem thêm bài viết về “Tội phạm“
- Động cơ phạm tội và mục đích phạm tội là gì? Phân tích dấu hiệu động cơ phạm tội và mục đích phạm tội trong cấu thành tội phạm – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Mặt chủ quan của tội phạm là gì? Phân tích các yếu tố cấu thành mặt chủ quan của tội phạm – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Chủ thể của tội phạm là gì? Các loại chủ thể đặc biệt trong tội phạm – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Mặt khách quan của tội phạm là gì? Phân tích các yếu tố cấu thành trong mặt khách quan của tội phạm? – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Đối tượng tác động của tội phạm là gì? Phân loại đối tượng tác động của tội phạm? – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
2. Đặc điểm của tội phạm hoàn thành
Trong định nghĩa trên, cần hiểu đặc điểm hoàn thành là “hoàn thành” về mặt pháp lý vì hành vi đã thoả mãn tất cả các dấu hiệu pháp lý của tội phạm; “hoàn thành” ở đây không gắn với mục đích phạm tội của người phạm tội. Với quan niệm về tội phạm hoàn thành như vậy, luật hình sự Việt Nam khẳng định: Thời điểm tội phạm hoàn thành không phụ thuộc vào việc người phạm tội đã đạt được mục đích của mình hay chưa. Khái niệm tội phạm hoàn thành không dùng để chỉ thời điểm người phạm tội đạt được mục đích của mình, khi tội phạm hoàn thành thì cũng có thể người phạm tội đã đạt được mục đích của mình nhưng cũng có thể chưa đạt được mục đích đó. Nói tội phạm hoàn thành là hoàn thành về mặt pháp lý – tức tội phạm đã thoả mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Tội phạm khi đã hoàn thành về mặt pháp lí, có thể cũng dừng lại không xảy ra nữa trong thực tế nhưng cũng có thể vẫn còn tiếp tục xảy ra. Ngược lại, tội phạm tuy đã dừng lại nhưng có thể chưa hoàn thành vì chưa thoả mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Trong thực tiễn áp dụng, khi xác định trường hợp phạm tội cố ý cụ thể là đã hoàn thành hay chưa, chỉ cần kiểm tra hành vi phạm tội đã thoả mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm hay chưa. Sẽ là trường hợp tội phạm hoàn thành nếu hành vi phạm tội đã thoả mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm và ngược lại sẽ là trường hợp tội phạm chưa hoàn thành nếu hành vi phạm tội chưa thoả mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan của tội phạm) của cấu thành tội phạm. (Trong trường hợp tội phạm hoàn thành và trong trường hợp tội phạm chưa hoàn thành, lỗi cũng như các dấu hiệu khác thuộc mặt chủ quan của tội phạm là như nhau cho nên việc xác định tội phạm hoàn thành chỉ liên quan đến các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm)
Như vậy, việc quy định thời điểm hoàn thành của từng tội phạm được thực hiện qua việc xây dựng các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Thời điểm hoàn thành sớm hay muộn là tuỳ thuộc vào việc xây dựng các dấu hiệu của cấu thành tội phạm, nhưng việc đưa những dấu hiệu nào vào cấu thành tội phạm không phải là tùy ý thích chủ quan của các nhà làm luật mà phụ thuộc vào những yếu tố khách quan như được trình bày trong Chương IV. Những dấu hiệu đó phải phản ánh được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đủ cho phép phân biệt với tội phạm khác cũng như với trường hợp chưa phải là tội phạm và đảm bảo thời điểm hoàn thành của tội phạm phù hợp với yêu cầu chống tội phạm cũng như với đặc điểm của tội phạm.
3. Thời điểm xác định tội phạm hoàn thành
Căn cứ vào định nghĩa chung về tội phạm hoàn thành và dựa vào đặc điểm cấu trúc của các loại cấu thành tội phạm, có thể rút ra được kết luận về thời điểm hoàn thành của các tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, có cấu thành tội phạm hình thức và có cấu thành tội phạm cắt xén như sau:
3.1. Tội phạm có cấu thành vật chất
Tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất được xác định là (tội phạm) hoàn thành khi hậu quả của tội phạm đã xảy ra vì trong cấu thành tội phạm vật chất có dấu hiệu hậu quả thiệt hại. Ví dụ: Tội giết người là tội có cấu thành tội phạm vật chất nên tội này hoàn thành khi hậu quả chết người xảy ra.
3.2. Tội phạm có cấu thành hình thức
Tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức được xác định là (tội phạm) hoàn thành khi hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm đã được thực hiện vì trong cấu thành tội phạm hình thức không có dấu hiệu hậu quả thiệt hại mà chỉ có dấu hiệu hành vi khách quan. Ở những tội phạm này, dấu hiệu hành vi khách quan có thể chỉ là một hành vi như ở tội cướp tài sản (dùng vũ lực hoặc…) nhưng cũng có thể bao gồm nhiều hành vi khác nhau như tội hiếp dâm (dùng vũ lực hoặc… và giao cấu…). Trong trường hợp dấu hiệu hành vi khách quan bao gồm nhiều hành vi khác nhau như vậy, tội phạm được xác định là tội phạm hoàn thành khi những hành vi này đều đã được thực hiện. (Về kỹ thuật mô tả dấu hiệu hành vi trong cấu thành tội phạm, xem: Nguyễn Ngọc Hoà, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2015, tr. 188 và các trang tiếp theo)
3.3. Tội phạm có cấu thành cắt xén
Tội phạm có cấu thành tội phạm cắt xén được xác định là (tội phạm) hoàn thành khi hành vi bất kì (hoạt động) hướng tới thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại được mô tả trong cấu thành tội phạm . Như vậy, đối với tội phạm có cấu thành tội phạm cắt xén chỉ có tội phạm hoàn thành vì khi chủ thể thực hiện hành vi bất kỳ hướng tới hành vi được xác định thì hành vi của họ đã thoả mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cắt xén. (Về dấu hiệu hành vi trong cấu thành tội phạm cắt xén, xem: Nguyễn Ngọc Hoà, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2015, tr.191 và các trang tiếp theo)
4. Phân biệt tội phạm hoàn thành và tội phạm kết thúc
Thời điểm mà tội phạm được coi là tội phạm hoàn thành được nêu trên đây khác với thời điểm tội phạm kết thúc. Tội phạm kết thúc là thời điểm hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt. (Ở đây cần phân biệt giữa trường hợp thực sự chấm dứt với trường hợp tạm dừng lại là trường hợp hành vi phạm tội chỉ tạm gián đoạn để tiếp tục xảy ra như ở trường hợp tội liên tục) Thời điểm tội phạm hoàn thành là thời điểm dùng để đánh giá về mặt pháp lý còn thời điểm tội phạm kết thúc là thười điểm dùng để đánh giá về mặt thực tế. Hai thời điểm này khác nhau về tính chất nên về hình thức có thể trùng nhau hoặc không trùng nhau.
Hành vi phạm tội có thể dừng lại (kết thúc) khi tội phạm chưa hoàn thành và ngược lại tội phạm tuy đã được coi là tội phạm hoàn thành nhưng vẫn còn có thể tiếp tục xảy ra (chưa kết thúc). Việc phân biệt hai thời điểm này có ý nghĩa khi áp dụng chế định đồng phạm (Điều 17 Bộ luật Hình sự), chế định phòng vệ chính đáng (Điều 22 Bộ luật Hình sự) và khi áp dụng những quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 27 Bộ luật Hình sự). Việc áp dụng những chế định và những quy định này đều dựa vào thời điểm tội phạm kết thúc mà không phụ thuộc vào thời điểm tội phạm được coi là tội phạm hoàn thành.
Trong khi áp dụng quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, việc xác định thời điểm tội phạm kết thúc sẽ có ý nghĩa đối với những trường hợp giữa ngày thực hiện tội phạm và ngày tội phạm kết thúc có khoảng cách như ở những tội kéo dài hoặc ở những trường hợp tội liên tục. Đối với những trường hợp này, việc tính thời hạn phải kể từ ngày tội phạm kết thúc.
5. Phân biệt tội phạm hoàn thành và tội phạm chưa hoàn thành
Tội phạm hoàn thành như đã trình bày được dùng để phân biệt với tội phạm chưa hoàn thành ở các tội cố ý trực tiếp. Ở loại tội phạm này, cả hai trường hợp – tội phạm hoàn thành và tội phạm chưa hoàn thành đều bị coi là trường hợp phạm tội.
Đối với các tội cố ý gián tiếp và tội vô ý, khái niệm tội phạm hoàn thành cũng có thể được sử dụng. Tuy nhiên, việc sử dụng này không có ý nghĩa nên không cần thiết vì ở các tội cố ý gián tiếp và tội vô ý chí có tội phạm hoàn thành. Một hành vi xảy ra trong thực tế đã được xác định là tội cố ý gián tiếp hoặc tội vô ý thì luôn luôn có nghĩa là tội phạm hoàn thành.
Với cách hiểu tội phạm hoàn thành như trình bày, mỗi quy định về tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự hoặc trong luật hình sự đều là mô tả trường hợp tội phạm hoàn thành của một tội cụ thể. Do vậy, trong Bộ luật Hình sự hoặc trong luật hình sự không có điều luật riêng quy định về tội phạm hoàn thành./.
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời