Mục lục
Tội giết người: Các yếu tố cấu thành tội phạm và Hình phạt
Tác giả: Nguyễn Ngọc Hòa
Tội giết người là một trong các tội xâm phạm tính mạng của con người. Trong đó:
1. Tội giết người là gì?
Điều 123 Bộ luật Hình sự quy định tội giết người nhưng không mô tả các dấu hiệu của tội danh này. Từ thực tiễn xét xử đã được thừa nhận, có thể định nghĩa tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác.
Xem thêm bài viết về “Dấu hiệu pháp lý”
- Tội giết người: Các yếu tố cấu thành tội phạm và Hình phạt –
- Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ: Các yếu tố cấu thành tội phạm và Hình phạt – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh: Các yếu tố cấu thành tội phạm và Hình phạt – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội: Các yếu tố cấu thành tội phạm và Hình phạt – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ: Các yếu tố cấu thành tội phạm và Hình phạt – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Tội vô ý làm chết người: Các yếu tố cấu thành tội phạm và Hình phạt – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
2. Dấu hiệu pháp lý/ Các yếu tố cấu thành tội phạm
Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:
Điều 123. Tội giết người |
---|
"1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: |
2.1. Dấu hiệu mặt khách quan của tội phạm
2.1.1. Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm
Điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội phạm mà chỉ nhắc lại tội danh “giết người” nhưng từ định nghĩa được thực tiễn thừa nhận nêu trên có thể hiểu, hành vi khách quan của tội giết người là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác. Đó là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ. Những hành vi không có khả năng này không thể là hành vi khách quan của tội giết người. Hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người có thể là hành động như hành động bắn, đâm, chém… Hành vi khách quan của tội giết người cũng có thể là không hành động. Đó là những trường hợp chủ thể có nghĩa vụ phải hành động, phải làm những việc nhất định để đảm bảo sự an toàn về tính mạng của người khác nhưng họ đã không hành động, không thực hiện những việc làm đó. Không hành động của họ trong những trường hợp này cũng có khả năng gây ra cái chết cho con người.
Ví dụ: Không hành động của người mẹ (không cho con mình ăn, uống).
Đối tượng tác động của hành vi tước đoạt tính mạng trong tội giết người là người khác và người đó phải là người đang sống. Thời điểm bắt đầu của người đang sống được tính từ thời điểm được sinh ra và kết thúc khi sự sống thực sự chấm dứt.
Hành vi tước đoạt tính mạng được coi là hành vi khách quan của tội giết người phải là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác. Hành vi tự tước đoạt tính mạng của chính mình không thuộc hành vi khách quan của tội giết người. Những hành vi gây ra cái chết cho người khác được pháp luật cho phép cũng không phải là hành vi khách quan của tội giết người.
Ví dụ: Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác trong trường hợp phòng vệ chính đáng (Điều 22 Bộ luật Hình sự) hay trong trường hợp thi hành bản án tử hình.
Trong thực tiễn xét xử còn gặp những trường hợp tước đoạt tính mạng người khác do được nạn nhân yêu cầu. Động cơ của những hành vi này có thể khác nhau. Trong đó có những động cơ mang tính nhân đạo.
Ví dụ: Tước đoạt tính mạng người bị mắc bệnh hiểm nghèo nhằm tránh đau khổ kéo dài cho họ… Theo luật hình sự Việt Nam, những trường hợp này vẫn bị coi là trái pháp luật.
2.1.2. Dấu hiệu hậu quả của tội phạm
Hậu quả của tội phạm được xác định là là hậu quả chết người. Như vậy, tội giết người chỉ được coi là tội phạm hoàn thành khi có hậu quả chết người. Nếu hậu quả chết người không xảy ra vì nguyên nhân khách quan thì hành vi phạm tội bị coi là tội giết người chưa đạt (khi lỗi của chủ thể là cố ý trực tiếp) hoặc là tội cố ý gây thương tích (khi lỗi của chủ thể là cố ý gián tiếp và hậu quả thương tích đã xảy ra đủ cấu thành tội phạm này).
2.1.3. Dấu hiệu quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả chết người
Theo nguyên tắc chung, người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm về hậu quả nguy hiểm cho xã hội do chính hành vi của mình gây ra. Nguyên tắc này đòi hỏi phải xác định hậu quả chết người có quan hệ nhân quả với hành vi khách quan của người bị buộc phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người (hoàn thành).
Như vậy, việc xác định mối quan hệ nhân quả là điều kiện cần thiết để có thể buộc người có hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác phải chịu trách nhiệm về hậu quả chết người đã xảy ra. Người có hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả chết người đã xảy ra nếu hành vi họ đã thực hiện là nguyên nhân của hậu quả chết người đã xảy ra đó. Trong nhiều trường hợp, việc xác định này rất phức tạp, đòi hỏi có sự hỗ trợ của giám định pháp y.
2.2. Dấu hiệu mặt chủ quan của tội phạm
2.2.1. Dấu hiệu lỗi của chủ thể
Lỗi của người phạm tội được xác định trong cấu thành tội phạm là lỗi cố ý vì “giết người” đã bao hàm lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Trong trường hợp có lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra (hoặc tất nhiên xảy ra) nhưng vì mong muốn hậu quả đó nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp có lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội nhận thức hành vi của mình có khả năng nguy hiểm đến tính mạng người khác, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra nhưng để đạt được mục đích của mình, người phạm tội có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra hay nói cách khác, họ có ý thức chấp nhận hậu quả đó (nếu xảy ra).
Ở đây cần chú ý: Chỉ có thể có lỗi cố ý gián tiếp nếu người phạm tội thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra. Nếu đã thấy trước hậu quả chết người tất nhiên xảy ra thì chỉ có thể là cố ý trực tiếp.
Trong trường hợp hậu quả chết người đã xảy ra, việc xác định lỗi là cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp không có ý nghĩa trong việc định tội nhưng việc xác định này sẽ có ý nghĩa quan trọng nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan nhưng hậu quả chết người chưa xảy ra. Cụ thể:
Nếu hậu quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là cố ý trực tiếp thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người chưa đạt;
Nếu hậu quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là cố ý gián tiếp thì người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích (nếu thương tích xảy ra thoả mãn đòi hỏi của cấu thành tội phạm tội này) mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người chưa đạt).
Trong thực tiễn áp dụng luật hình sự, việc xác định lỗi của chủ thể là lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp không đơn giản mà trong nhiều trường hợp hết sức phức tạp. Việc xác định lỗi còn đặc biệt phức tạp hơn trong những trường hợp phải xác định lỗi của chủ thể là lỗi cố ý gián tiếp hay chỉ là lỗi vô ý quá tự tin đối với hậu quả chết người.
2.2.2. Dấu hiệu mục đích, động cơ phạm tội
Mục đích, động cơ phạm tội không được mô tả trong cấu thành tội phạm (cơ bản) của tội giết người. Trong khi trong thực tế, hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác có thể được thực hiện với các mục đích cũng như các động cơ khác nhau. Do vậy, cần chú ý: Hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác vì mục đích nhất định hoặc do động cơ nhất định có thể cấu thành tội phạm khác mà không cấu thành tội giết người.
Ví dụ: Hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác vì mục đích chống chính quyền nhân dân cấu thành tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân theo Điều 113 Bộ luật Hình sự; hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác vì mục đích gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng cấu thành tội khủng bố theo Điều 299 Bộ luật Hình sự; hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội cấu thành tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội theo Điều 126 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, cũng cần chú ý, một số động cơ phạm tội được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của tội giết người.
Xem thêm bài viết về “Tội Giết người“
- Một số vấn đề Kiểm sát viên lưu ý khi tham gia xét hỏi bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự về Tội Giết người – ThS. Vũ Đức Hạnh
3. Hình phạt
Điều luật quy định 02 khung hình phạt chính (Khung hình phạt cơ bản và tăng nặng), 01 khung hình phạt bổ sung và 01 khung hình phạt cho chuẩn bị phạm tội.
3.1. Khung hình phạt cơ bản
Khung hình phạt cơ bản có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
3.2. Khung hình phạt tăng nặng
Khung hình phạt tăng nặng có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
3.2.1. Giết 02 người trở lên
Giết 02 người trở lên: Đây là trường hợp giết người có nhiều nạn nhân, không phụ thuộc chủ thể có một hoặc nhiều hành vi giết người khác nhau.
3.2.2. Giết người dưới 16 tuổi
Giết người dưới 16 tuổi: Đây là trường hợp giết người mà nạn nhân là người dưới 16 tuổi, thuộc đối tượng cần được xã hội quan tâm và bảo vệ đặc biệt.
3.2.3. Giết phụ nữ mà biết là có thai
Giết phụ nữ mà biết là có thai: Đây là trường hợp nạn nhân của tội phạm là người đang mang thai và khi thực hiện hành vi giết người, chủ thể cũng biết rõ điều này. Đây được coi là trường hợp giết người tăng nặng trách nhiệm hình sự vì hành vi phạm tội xâm phạm đối tượng cần được xã hội quan tâm và bảo vệ đặc biệt. Hành vi giết phụ nữ mà biết là có thai thể hiện tính vô nhân đạo cao độ, rất khác so với trường hợp phạm tội giết người thông thường. Hành vi phạm tội không chỉ xâm phạm đến tính mạng của người mẹ mà còn xâm phạm đến sự sống trong tương lai của đứa con.
3.2.4. Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân
Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân: Giết người đang thi hành công vụ là trường hợp giết người mà nạn nhân là người đang thi hành công vụ. Giết người vì lý do công vụ của nạn nhân là trường hợp giết người mà động cơ của hành vi giết người gắn liền với việc thi hành công vụ của nạn nhân: Giết nạn nhân để không cho nạn nhân thi hành công vụ hay giết nạn nhân để trả thù việc nạn nhân đã thi hành công vụ. Công vụ ở đây được hiểu “… là hoạt động theo đúng pháp luật của chủ thể được cơ quan nhà nước giao nhằm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước bao gồm quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án”.
Ví dụ: Công việc giữ trật tự công cộng hay an toàn giao thông của công an. Tính nguy hiểm của những trường hợp giết người này là ở chỗ không chỉ xâm phạm đến tính mạng con người mà đồng thời còn xâm phạm nghiêm trọng trật tự công cộng, cản trở hoạt động chung xã hội, gây ra ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an.
3.2.5. Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình
Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình: Đây là trường hợp giết người mà nạn nhân là người có quan hệ đặc biệt với người phạm tội. Trong mối quan hệ đặc biệt này, người phạm tội là người phải biết ơn và kính trọng nạn nhân. Với hành vi phạm tội của mình, người phạm tội trong trường hợp này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn vi phạm nghiêm trọng đạo lí.
3.2.6. Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Đây là trường hợp giết người mà liền trước hoặc sau hành vi giết người, người phạm tội đã phạm thêm một hoặc nhiều tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Việc liên tiếp phạm tội như vậy chứng tỏ người phạm tội có ý thức phạm tội sâu sắc. Điều này không chỉ làm tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội giết người mà còn phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục của người phạm tội.
3.2.7. Giết người để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác
(Giết người) để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác: Đây là trường hợp giết người mà động cơ thúc đẩy người phạm tội có hành vi giết người là việc thực hiện tội phạm khác hoặc việc che giấu tội phạm khác. Ví dụ: Muốn trốn khỏi nơi giam đã giết người canh gác (Điều 386 Bộ luật Hình sự); hoặc muốn che giấu tội trộm cắp tài sản mà mình đã thực hiện có nguy cơ bị lộ nên đã giết người để bịt đầu mối. Tội phạm khác mà người giết người muốn thực hiện hoặc che giấu có thể là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, có thể do một mình thực hiện hoặc thực hiện với những người đồng phạm khác.
3.2.8. Giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân
(Giết người) để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân: Đây là trường hợp giết người mà động cơ phạm tội là việc chiếm đoạt bộ phận cơ thể của nạn nhân cho mình, cho người thân hoặc để trao đổi, mua bán. Động cơ phạm tội trong trường hợp này được xem như loại động cơ đê hèn, thể hiện tính ích kỉ cá nhân cao độ trong việc đánh đổi tính mạng người khác cho việc thoả mãn nhu cầu cá nhân…
3.2.9. Thực hiện tội phạm một cách man rợ
Thực hiện tội phạm một cách man rợ: Đây là trường hợp giết người một cách đặc biệt tàn ác, dã man làm cho nạn nhân đau đớn rất nhiều trước khi chết (giết bằng cách hành hạ, tra tấn cho đến chết…) hoặc gây ra sự rùng rợn cho người khác (chặt rời chân tay, khoét mắt nạn nhân…).
3.2.10. Giết người bằng cách lợi dụng nghề nghiệp
(Giết người) bằng cách lợi dụng nghề nghiệp: Đây là trường hợp giết người mà người phạm tội đã lợi dụng nghề nghiệp của mình để có thể dễ dàng thực hiện hoặc che giấu hành vi giết người. Ví dụ: Bác sĩ lợi dụng nghề nghiệp thực hiện hành vi giết bệnh nhân của mình.
3.2.11. Giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người
(Giết người) bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người: Đây là trường hợp giết người mà người phạm tội đã sử dụng công cụ, phương tiện hoặc thủ đoạn phạm tội có khả năng làm chết nhiều người (trong hoàn cảnh cụ thể). Ví dụ: Dùng chất nổ giết nạn nhân đang ở trong nhà cùng với những người khác… Tình tiết này chỉ đòi hỏi công cụ, phương tiện hay thủ đoạn đã sử dụng đặt trong điều kiện cụ thể có khả năng làm chết nhiều người mà không đòi hỏi thực sự đã gây ra hậu quả chết nhiều người.
3.2.12. Thuê giết người hoặc giết người thuê
Thuê giết người hoặc giết người thuê: Thuê giết người là trường hợp dùng lợi ích vật chất sai khiến người khác thực hiện hành vi giết người theo ý muốn của mình, biến họ thành “công cụ” giết người trong tay mình. Ngược lại, giết người thuê là trường hợp giết người chỉ vì động cơ kiếm tiền hay lợi ích vật chất khác. Đây cũng là một dạng của động cơ đê hèn.
3.2.13. Giết người có tính chất côn đồ
(Giết người) có tính chất côn đồ: Đây là trường hợp giết người mà tất cả những tình tiết của vụ án thể hiện người phạm có tính hung hãn cao độ, quá coi thường tính mạng của người khác, sẵn sàng giết người vì những nguyên cớ nhỏ nhặt.
3.2.14. Giết người có tổ chức
(Giết người) có tổ chức: Đây là trường hợp đồng phạm giết người mà giữa các chủ thể có sự câu kết chặt chẽ với nhau.
3.2.15. Giết người trong trường hợp tái phạm nguy hiểm
(Giết người trong trường hợp) tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp giết người thoả mãn các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự.
3.2.16. Giết người vì động cơ đê hèn
(Giết người) vì động cơ đê hèn: Đây là trường hợp giết người mà tính chất của động cơ phạm tội đã làm mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi giết người tăng lên một cách rõ ràng so với những trường hợp bình thường. Thực tiễn xét xử thừa nhận những động cơ phạm tội sau bị coi là động cơ để hèn: Giết vợ hoặc chồng để có thể lấy vợ hoặc chồng khác; giết người vì vụ lợi (giết người để được hưởng thừa kế của họ,…); giết người có tính chất bội bạc, phản trắc (giết người tình đã có thai với mình để trốn tránh trách nhiệm…).
3.3. Khung hình phạt bổ sung
Khung hình phạt bổ sung được quy định (có thể được áp dụng) là: Cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm; phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
3.4. Khung hình phạt cho chuẩn bị phạm tội
Khung hình phạt được quy định cho chuẩn bị phạm tội là phạt tù từ 01 năm đến 05 năm./.
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời