Mục lục
Theo quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 thì chỉ có các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
1. Phạm tội có tổ chức
Phạm tội có tổ chức là hình thức phạm tội có đồng phạm, có sự cấu kết giữa những người phạm tội với nhau gây nguy hiểm cho xã hội. Phạm tội có tổ chức được quy định rõ trong hệ thống pháp luật của nước ta, cụ thể tại điểm a, khoản 1 điều 48 của BLHS đã quy định.
Phạm tội có tổ chức khi gây nguy hiểm cho xã hội mà đến mức xử lý hình sự thì tùy thuộc vào từng người phạm tội, vai trò của từng cá nhân phạm tội, ai là người cầm đầu, người chỉ đạo thực hiện phạm tội thì mức độ người cầm đầu sẽ bị xử lý TNHS nặng hơn so với người đồng phạm là giúp sức, hoặc bị xúi giục hay bị lôi kéo, ép buộc dẫn đến đồng phạm phạm tội.
Do vậy, khi ra quyết định hình phạt, tùy từng vị trí vai trò của người phạm tội và sẽ có khung hình phạt tương ứng nhằm xử lý nghiêm minh trước pháp luật để ngăn ngừa, răn đe, giáo dục người cầm đầu, tổ chức vi phạm pháp luật hình sự, đồng thời cũng không xem nhẹ các đồng phạm. Tùy vào tính chất khách nhau mà có các khung hình phạt khác nhau. Cùng phạm tội như nhau thì khung hình phạt phạt phải như nhau.
Xem thêm bài viết về “Tình tiết tăng nặng”
- Tình tiết tăng nặng Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là gì? – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Tình tiết tăng nặng “Phạm tội có tổ chức” là gì? – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Phạm tội khi say rượu, ngáo đá là tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ? – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quy định của Bộ luật Hình sự 2015 về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
2. Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp
Tình tiết này đã được hướng dẫn và quy định rõ ràng tại Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP, cụ thể phải có đầy đủ những điều kiện sau thì mới áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.
Người phạm tội cố ý phạm tội nhiều hơn năm lần về cùng một loại tội phạm mà không cần phải phân biệt đã bị truy cứu TNHS hay chưa, nếu chưa hết thời gian truy cứu TNHS hay chưa được xóa án tích.
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp còn được quy định đó là người phạm tội sử dụng các lần phạm tội của mình để làm nghề nuôi sống bản thân và xem phạm tội có được là nguồn sống chính.
Xem thêm bài viết: Phạm tội có tính chất “chuyên nghiệp” là gì?
3. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan nhà nước, làm chủ các doanh nghiệp có chức, có quyền, dùng chức vụ và quyền lực của mình để tìm kiếm lợi ích của chung thành của riêng cá nhân mình mà lợi ích đó đi ngược với lợi ích chung của xã hội và của cộng đồng.
Việc lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội được diễn ra khi người đứng đầu có quyền lực mà quyền lực không được kiểm soát bằng hệ thống pháp luật, thậm chí người có chức có quyền lợi dụng các kẽ hỡ của pháp luật, luồn lách tránh luật pháp để phạm tội nhưng không bị phát hiện. Người phạm tội lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để phạm tội thì được xem là tình tiết tăng nặng TNHS theo quy định.
Tuy nhiên, nếu người có chức vụ quyền hạn phạm tội mà không sử dụng chức vụ quyền hạn của mình để phạm tội thì không được xem là tình tiết tăng nặng TNHS theo quy định của pháp luật.
Lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội khi nó không phải là tình tiết định tội hoặc định khung thì được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt.
Xem thêm bài viết về “Trách nhiệm hình sự”
- Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. Nguyễn Thị Xuân
- Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán ở Việt Nam nhìn từ yêu cầu phát triển bền vững thị trường chứng khoán – ThS. Nguyễn Thị Lan Anh
- Miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 từ góc độ tư pháp phục hồi – ThS. Nguyễn Thị Thùy Dung & ThS. Nguyễn Trần Minh Công
- Một số vấn đề về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh
- Tội “Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội’’ và phương hướng hoàn thiện quy định của BLHS đáp ứng yêu cầu phòng, chống bỏ lọt tội phạm – ThS. Trần Đình Hải
4. Phạm tội có tính chất côn đồ
Phạm tội có tính chất côn đồ là hành vi phạm tội có tính chất coi thường pháp luật, coi thường mạnh sống của người khác, sử dụng vú khí, công cụ hỗ trợ đe dọa, ép buộc người khác làm theo ý mình, hoặc vô cớ, hay viện nguyên cớ để phạm tội đối với người khác. Pham tội có tính chất côn đồ đã được đề cập tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1995 và hướng dẫn tại Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 và TAND tối cao. Phạm tội có tính chất côn đồ thường là xâm phạm tài sản, sức khỏe, tính mạng và danh dự người khác, làm cho người khác mất uy tín, mất năng lực phòng vệ, phạm tội có tính chất côn đồ thường gây gổ một cách vô cớ, coi thường pháp luật cũng như những giá trị đạo đức xã hội.
5. Phạm tội vì động cơ đê hèn
Phạm tội vì động cơ đê hèn là hành vi phạm tội được thực hiện với động cơ, mục đích xấu xa, thấp hèn, phạm tội có tính chất đáng khinh bỉ, thiếu danh dự, phẩm chất của một con người. Phạm tội vì động cơ đê hèn thể hiện ý thức đạo đức pháp luật non kém, thiếu nhận văn nhân đạo trong cư xử giữa con người với con người, thể hiện tính bội bạc, ích kỷ, xem thường tính mạng và tài sản của người khác.
Trong phạm tội vì động cơ đê hèn thì mức độ ích kỷ, xấu xa, thấp hèn càng cao thì tình tiết tăng nặng TNHS càng cao cho mỗi hành vi phạm tội.
6. Cố tình thực hiện phạm tội đến cùng
Phạm tội đến cùng là phạm tội có tính chất quyết liệt, thực hiện bằng được mục đích của mình, mặc dù có người can ngăn, có người cán trở hoạt động phạm tội của mình nhưng người phạm tội vẫn quyết tâm thực hiện. Phạm tội đến cùng thể hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội, khi gây tội thường dẫn đến tội đặc biệt nghiêm trọng nên cần phải áp dụng tình tiết tăng nặng tránh nhiệm hình sự.
Phạm tội đến cùng có mức tăng nặng TNHS cao khi mức độ thể hiện phạm tội cao, phụ thuộc vào mức độ cản trở đối với người phạm tội. Nếu mức cản trở càng cao mà người phạm tội vẫn cố tình thực hiện bằng được phạm tội đến mục đích cuối cùng thì mức độ tăng nặng TNHS càng cao.
7. Phạm tội 02 lần trở lên (Phạm tội nhiều lần)
Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ 2 lần trở lên mà hành vi phạm tội đã cấu thành tội phạm, phạm tội nhiều lần có thể cùng một loại tội hoặc có thể hiều loại tội khác nhau thì đều được xem là phạm tội nhiều lần, chứ không nhất thiết phải phạm cùng một loại tội thì mới được xem là phạm tội nhiều lần.
Phạm tội nhiều lần được xem xét các tình tiết tăng nặng TNHS càng cao khi mức độ phạm tội càng nhiều lần, ngoài ra còn phụ thuộc và tính chất và mức độ phạm tội nguy hiểm cho xã hội mà mỗi lần bị cáo thực hiện.
Xem thêm bài viết: Tình tiết tăng nặng: “Phạm tội từ 02 lần trở lên”
8. Tái phạm
Tái phạm là khái niệm đã được quy định tại khoản 1, Điều 49 BLHS, chúng ta có thể hiểu, tái phạm là người phạm tội đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích, song lại tiếp tục phạm tội do cố ý hoặc vô ý gây ra hậu quả nghiêm trọng thì được gọi là tái phạm.
Khái niệm về tái phạm, theo BLHS năm 1999 có đặc điểm sau: Tái phạm là loại tội phạm đã bị kết án một lần với một tội phạm bất kỳ được quy định trong BLHS, có thể là tái phạm cùng loại tội nhưng cũng có thể không cùng loại tội phạm cùng tính chất với tội đang bị xét xử, không phân biệt tội đó là tội nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng, hoặc tội rất nghiêm trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng, dù tội đó được thực hiện do cố tình hay do vô tình gây ra nguy hiểm cho xã hội thì đều được coi là tái phạm.
9. Tái phạm nguy hiểm
Theo điểm a và điểm b khoản 2 Điều 49 BLHS năm 1999 thì Tái phạm nguy hiểm được hiểu là tội phạm đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, hoặc đặc biệt nghiên trọng do cố tình vi phạm, và án tích chưa được xóa mà lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng, hay đặc biệt nghiêm trọng hoặc tái phạm.
Tái phạm nguy hiểm theo BLHS năm 1999 có đặc điểm sau:
Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, không phân biệt tội đó là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng.
Tội phạm nguy hiểm là tội phạm đã hai lần trở lên phạm tội rất nghiêm trọng, hoặc 2 lần phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, hoặc phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng do vô tình phạm tội và mỗi lần đã bị kết án.
Việc tăng nặng TNHS của loại tội phạm này còn tùy thuộc vào mức độ gây nguy hiểm mà bị cáo đã thực hiện đối với xã hội. Nếu đã từng tái phạm nguy hiểm nhưng lại tiếp tục tái phạm nguy hiểm nữa thì mức tăng nặng TNHS nặng hơn.
10. Phạm tội đối với phụ nữ có thai, người dưới 16 tuổi, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người già trên 70 tuổi, hoặc đối với người lệ thuộc về mặt vật chất hay công việc hoặc các vấn đề khác
10.1. Phạm tội đối với phụ nữ có thai
Theo Th.s Đinh Văn Quế, trong bài viết: “người bị hại trong vụ án hình sự”, đăng trên Tạp chí TAND, số 12/1997 thì phạm tội đối với trẻ em được hiểu là “người phạm tội xâm phạm trực tiếp, hay giảm tiếp đến trẻ em làm ảnh hưởng đến tính mạng, nhân phẩm danh dự, sức khỏe, và các quyền khác của trẻ em có được theo quy định của BLHS đã quy định”.
Theo quy định của pháp luật thì người dưới 16 tuổi được quy định là trẻ em. Nội dung này đã được thể hiện tại Điều 1 trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của nước ta.
Tùy theo độ tuổi khác nhau của trẻ em mà mức độ tăng nặng TNHS của tình tiết này sẽ khác nhau, nếu trẻ em càng nhỏ tuổi, khả năng tự vệ thấp thì mức độ tình tiết tăng nặng TNHS càng cao và ngược lại.
10.2. Phạm tội đối với phụ nữ có thai
Phạm tội đối với phụ nữ có thai chúng ta có thể hiểu là người phạm tội xâm phạm trực tiếp hoặc giản tiếp ảnh hưởng đến tính mạng, nhân phẩm, danh dự và sức khỏe của người phụ nữ đang mang thai cũng như các quyền khác của phụ nữ mang thai.
Tùy theo thời kỳ thai nghén của người phụ nữ mang thai khác nhau mà mức độ tăng nặng tình tiết TNHS cũng khác nhau. Người phụ nữ mang thai càng ít tháng thì mức độ tăng nặng TNHS càng cao và ngược lại, người phụ nữ mang thai càng nhiều tháng thì mức độ nhẹ hơn. Ngoài ra, còn phụ thuộc vào mức độ nguy hiểm đến tính mạng của người mang thai mà người phạm tội gây ra thì mức độ tăng nặng TNHS cũng tăng theo.
10.3. Phạm tội đối với người trên 70 tuổi
Phạm tội đối với người già chúng ta có thể hiểu là người phạm tội xâm phạm đến danh dự, nhận phẩm, sức khỏe và các quyền lợi khác của người đủ 70 tuổi trở lên thì được xem là phạm tội đối với người già.
Căn cứ để tăng nặng TNHS của loại tội này là phụ thuộc vào độ tuổi của người bị phạm tội, người bị phạm tội có tuổi đời càng lớn thì mức độ tăng nặng TNHS càng cao và ngược lại. Tuy nhiên, đây không phải và vấn đề bắt buộc nhưng có ý nghĩa đối với việc tăng nặng TNHS nhằm răn đe, giáo dục những người phạm tội. Mặt khác, tăng nặng TNHS còn tùy thuộc vào mức độ trình độ và uy tín của người bị phạm tội, người càng có uy tín và trình độ càng cao thì người phạm tội xâm phạm sẽ bị xử lý càng nặng, và ngược lại những người có uy tín thấp hơn thì mức tăng nặng cũng thấp hơn so với cùng loại tội.
10.4. Người ở trong tình trạng không thể tự vệ được
Phạm tội đối với người không tự vệ được là người phạm tội đã xâm phạm tới sức khỏe, danh dự và nhân phẩm cũng như những quyền khác mà người bị xâm phạm không có khả năng phòng vệ cho bản thân. Ví dụ, đánh một người già yếu, ốm đau bệnh tật nằm trên gường bệnh, hay đánh người bị bệnh tâm thần, đánh người không điều khiển được hành vi của mình.
10.5. Đối với người lệ thuộc về mặt vật chất hay công việc hoặc các vấn đề khác
Tình tiết tăng nặng TNHS đối với loại tội phạm này phụ thuộc vào mức độ lệ thuộc của bị cáo và người bị phạm tội, cũng như phụ thuộc vào nghĩa vụ của người phạm tội đối với nạn nhân. Ngoài ra còn phụ thuộc vào mức độ nguy hiểm của bị cáo đối với nạn nhân, nếu mức độ nguy hiểm càng cao thì tình tiết tăng nặng TNHS càng cao và ngược lại.
11. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội
Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh để phạm tội là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng hoàn cảnh có chiến tranh để thực hiện tội phạm. Người thực hiện tội phạm mà lợi dụng đất nước có chiến tranh để thực hiện phạm tội được thuận lợi hơn, khó bị phát hiện hơn hay có thể đạt được mục đích nhiều hơn.
Tùy vào mức độ lợi dụng chiến tranh để phạm tội nhiều hay ít hay tùy thuộc vào mức độ chiến tranh nhiều hay ít mà mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự sẽ cao hay thấp khác nhau.
12. Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội
Dùng thủ đoạn xảo quyệt trong khi phạm tội, là người phạm tội có những mánh khóe, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người bị hại hoặc những người khác khó lường thấy được để đề phòng.
Tùy thuộc vào từng mức độ xáo quyệt, hành vi tham hiểm, tàn nhẫn của người phạm tội khác nhau mà tình tiết tăng nặng TNHS sẽ khác nhau. Thủ đoạn càng xáo quyệt, càng nham hiểm bao nhiêu thì mức độ tăng nặng TNHS sẽ cao bấy nhiêu và ngược lại.
Thủ đoạn được hiểu là người phạm tội sử dụng mọi cách thức, hình thức xáo quyệt để gây tội và gây nguy hại cho nhiều người thì được xem là tình tiết tăng nặng TNHS dù thủ đoạn đó có xảy ra hay không.
Thủ đoạn càng nguy hiểm, càng xáo quyệt cũng như hậu quả xảy ra càng lớn thì mức độ tăng nặng TNHS càng cao và ngược lại. Do vậy, mức độ tăng nặng TNHS của tội này còn tùy thuộc vào mức độ gây nguy hiểm của thủ đoạn mà người phạm tội đã gây ra và thực tiễn của loại tội này gây ra cũng như hậu của nó ảnh hưởng đến xã hội như thế nào.
13. Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội
Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội được hiểu là dùng thủ đoạn có tính chất gây nguy hại cho nhiều người như đổ thuốc độc vào giếng nước nhà nạn nhân có khả năng gây ngộ độc cho người nhà nạn nhân hoặc những nhà hàng xóm xung quanh nếu cùng sử dụng nước ngầm.
14. Xúi giục người dưới 18 tuổi (chưa thành niên) phạm tội
Người dưới 18 tuổi được xem là người chưa thành niên, việc xúc giục người chưa thành niên phạm tội là hành vi kích động, dụ dỗ người chưa thành niên phạm tội.
Với số lượng xúc giục người chưa thành niên phạm tội khác nhau thì mức độ tăng nặng TNHS cũng khác nhau. Xúc giục càng nhiều, độ tuổi càng thấp thì tình tiết tăng nặng TNHS càng cao và ngược lại.
15. Có hành động xảo quyệt, hoặc hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm
Là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm để trốn tránh TNHS, người phạm tội đã sử dụng những thủ đoạn tinh vi, để đánh lạc hướng điều tra phát hiện của các cơ quan chức năng như: sữa chữa hóa đơn chứng từ, thay đổi hiện trường… hoặc dùng bạo lực để tấn công, uy hiếp người phát giác. Tùy theo từng mức độ hung hăng, xáo quyệt khác nhau mà tình tiết tăng nặng TNHS cũng khác nhau. Mức độ hung hăng càng cao thì tăng nặng TNHS càng lớn và ngược lại./.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017)”
- Quy định về biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh theo Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quy định mới về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật Hình sự 2015 – PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ
- Dấu hiệu pháp lý Tội chứa mại dâm theo Bộ luật Hình sự 2015 – LS. Nguyễn Lan Anh
- Một số ý kiến về quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể theo Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. Mai Thị Thủy
- Một số đề xuất hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật Hình sự 2015 – TS. Phan Anh Tuấn
Trả lời