Mục lục
Cùng với tạm giữ, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để đảm bảo,… thì tạm giam là một trong các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS năm 2015. Vậy Tạm giam là gì?
1. Tạm giam là gì?
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng theo quy định của pháp luật. Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị cách ly với xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền của công dân.
Xem thêm bài viết về “Biện pháp ngăn chặn”
- Quy định về biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh theo Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Biện pháp ngăn chặn “Tạm giữ” trong tố tụng hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Biện pháp ngăn chặn “Bắt người đang bị truy nã” – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Sửa đổi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 theo Hiến pháp 2013 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn – PGS.TS. Trần Ngọc Đức
2. Mục đích tạm giam
Ngoài mục đích chung là ngăn chặn không để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp này còn có mục đích riêng nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng. Chẳng hạn, việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra có thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần. Đồng thời cũng giúp cho việc quản lý, giám sát bị can được chặt chẽ, việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm đảm bảo cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được thuận lợi.
3. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam
Tạm giam chỉ áp dụng đối với bị can bị cáo. Điều 119 BLTTHS năm 2015 quy định những trường hợp có thể áp dụng biện pháp tạm giam như sau:
3.1. Bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng
Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà theo quy định của BLTTHS, mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) hoặc tội mà mức cao nhất của khung hình phạt đến mười lăm năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng).
Việc áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp này cần hai điều kiện:
– Người bị áp dụng phải là bị can hoặc bị cáo,
– Bị can bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng.
3.2. Bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng mà hình phạt tù trên 2 năm
Bị can bị cáo về tội nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng mà bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ xác định người đó ở vào một trong các trường hợp sau đây:
– Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm. Đây là trường hợp bị can, bị cáo đã được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc như Bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú… Nhưng đã vi phạm nghĩa vụ đã cam kết như tiếp tục phạm tội, không có mặt khi được triệu tập.
– Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tội phạm tội. Để xác định điều kiện này phải căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc.
– Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tao tán tài sản liên quan đến vụ án, đe dọa, không chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
3.3. Bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng mà hình phạt tù đến 2 năm
Ngoài ra, tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến hai năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
Khi phạm tội thuộc những trường hợp trên, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam.
Tuy vậy, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ trường hợp sau đây:
– Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.
– Bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi mua chuộc, có nghe, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án, đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người.
– Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Xem thêm bài viết về “Tạm giam”
- Quy định về “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam” trong tố tụng hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
4. Thẩm quyền ra Lệnh, quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
Khoản 5 Điều 119 BLTTHS năm 2015 quy định những người có thẩm quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì có quyền ra lệnh tạm giam (những người có quyền ra lệnh phải quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại khoản 1 điều 113 BLTTHS).
Lệnh tạm giam của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Thời hạn mà Viện kiểm sát phải xem xét để ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra là 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam. Viện kiểm sát phải hoàn trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn dù có phê chuẩn hay không.
5. Thủ tục tạm giam
Việc tạm giam phải có lệnh đã được Viện kiểm sát phê chuẩn. Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng cần tạm giam, tránh trường hợp nhầm lẫn. Đồng thời thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.
6. Chế độ tạm giữ, tạm giam
Việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam không phải nhằm trừng trị người phạm tội mà là để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội.
Vì vậy, người bị tạm giữ, tạm giam không phải chấp hành chế độ của người thi hành hình phạt tù mà chỉ chấp hành các quy định về chế độ đi lại, sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam.
Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với nhân nhân và tài sản của người bị tạm giữ, tạm giam:
Điều 120 BLTTHS 2015 quy định khi áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam, nếu người bị tạm giữ, tạm giam có người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao người đó cho người thân thích chăm nom, trường hợp không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom.
Trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam phải áp dụng những biện pháp trông nom bảo quản thích đáng.
Sau khi đã áp dụng những biện pháp bảo hộ đối với nhân thân và tài sản, cơ quan đã ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam phải thông báo cho người bị tạm giữ, tạm giam biết những biện pháp đã được áp dụng.
7. Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
Trong BLTTHS 2015, thời hạn tạm giam đối với bị can không được quy định tập trung tại một điều luật mà được quy định tùy thuộc vào từng giai đoạn hay thủ tục tố tụng khác nhau để bảo đảm cho cơ quan tố tụng có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Ngoài ra, trong trường hợp trước khi bị can bị tạm giam, người này đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ. Thời hạn tạm giữ tuy ngắn nhưng đã hạn chế quyền tự do thân thể, tự do đi lại của công dân nên thời hạn tạm giữ được tính trừ vào thời hạn tạm giam theo nguyên tắc một ngày tạm giữ bằng một ngày tạm giam.
7.1. Thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra
7.1.1. Thời hạn tạm giam để điều tra
Theo quy định tại Điều 173 BLTTHS năm 2015, thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
– Điều kiện gia hạn điều tra
Thời hạn tạm giam để điều tra có thể được gia hạn. Tuy nhiên, do đây là biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc cao nên điều luật quy định cụ thể trường hợp gia hạn phải thỏa mãn hai điều kiện:
- Một là, khi vụ án có nhiều tính tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra.
- Hai là, khi không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam.
– Thủ tục gia hạn điều tra
Thủ tục gia hạn tạm giam cũng tương tự như thủ tục gia hạn điều tra: chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
– Số lần và thời hạn gia hạn tạm giam
BLTTHS năm 2015 đã quy định số lần gia hạn và thời hạn tạm giam được gia hạn. Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng; Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần khôn quá 02 tháng; Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng; Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
Như vậy, BLTTHS 2015 quy định thời hạn tạm giam tối đa để điều tra đối với tội phạm ít nghiêm trọng là 03 tháng, đối với tội phạm nghiêm trọng là 05 tháng, đối với tội rất nghiêm trọng là 07 tháng và đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là 12 tháng.
Có thể thấy, việc pháp luật hiện hành quy định về thời hạn tạm giam để điều tra đối với các tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đã được rút ngắn một cách đáng kể so với các quy định trước đây là một sự tiến bộ và có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn, nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng việc gia hạn để kéo dài tiến độ giải quyết vụ án, có thể xâm phạm đến các quyền, lợi ích cơ bản của công dân.
– Thẩm quyền gia hạn tạm giam
Thẩm quyền gia hạn tạm giam để điều tra thuộc về Viện kiểm sát.
Theo đó: VKSND cấp huyện, VKSQS khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng. Trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì VKSND cấp tỉnh, VKSQS cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
Trường hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất nêu ở trên đã hết mà chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì VKSND cấp tỉnh, VKSQS cấp quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trường hợp vụ án do CQĐT Bộ Công an, CQĐT Bộ Quốc phòng, CQĐT VKSNDTC thụ lý điều tra thì việc gia hạn tạm giam thuộc thẩm quyền của VKSNDTC, VKSQS trung ương.
Ngoài ra, đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ hai quy định tại điểm b khoản 3 Điều này đã hết và vụ án có nhiều tình tiết rất phức tạp mà không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng VKSNDTC có thể gia hạn tạm giam lần thứ ba.
Trong trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn tháng.
7.1.2. Thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra
Căn cứ vào quy định tại khoản 4 Điều 174 BLTTHS 2015 thì khi có căn cứ theo quy định của Bộ luật này cần phải tạm giam bị can thì thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra không được quá thời hạn phục hồi điều tra quy định tại khoản 1 Điều này.
Như vậy, chỉ được tạm giam bị can để phục hồi điều tra khi có đầy đủ các căn cứ quy định tại Điều 119 và Điều 419 BLTTHS 2015.
Thời hạn phục hồi điều tra được quy định tại khoản 1 Điều 174 BLTTHS 2015, cụ thể:
- Không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.
- Không quá 03 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.
Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.
Việc gia hạn được quy định như sau:
- Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 01 tháng;
- Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng;
- Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 03 tháng.
7.1.3. Thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung:
Khoản 2 Điều 174 BLTTHS 2015 quy định như sau:
“Trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 02 tháng; nếu do Tòa án trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 01 tháng. Viện kiểm sát chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hai lần. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra bổ sung.”
7.1.4. Thời hạn tạm giam để điều tra lại:
Sau khi Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án cấp sơ thẩm có thẩm quyền tiến hành điều tra, truy tố, xét xử lại vụ án hình sự theo thủ tục chung. Khoản 4 Điều 174 BLTTHS 2015 còn quy định: “Thời hạn tạm giam và gia hạn tạm giam trong trường hợp vụ án được điều tra lại thực hiện theo quy định tại Điều 173 của Bộ luật này”. Như vậy, thời hạn tạm giam để điều tra lại sẽ được thực hiện tương tự theo điều luật về thời hạn tạm giam để điều tra.
7.2. Thời hạn tạm giam trong giai đoạn truy tố
Theo quy định tại Điều 241 BLTTHS năm 2015, thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố không được vượt quá thời hạn quyết định truy tố (quy định tại khoản 1 Điều 240 BLTTHS)
Căn cứ vào quy định trên, nếu xét thấy cần phải áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn truy tố thì người có thẩm quyền quyết định tạm giam bị can nhưng không vượt quá 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn tạm giam nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Như vậy, thời hạn tạm giam bị can trong giai đoạn truy tố tối đa là 30 ngày đối với tội ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, tối đa 45 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và 60 ngày với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
7.3. Thời hạn tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, tư cách bị can chỉ chấm dứt khi có quyết định của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đưa vụ án ra xét xử hoặc đình chỉ vụ án. Bị can vẫn có thể bị Chánh án hoặc Phó Chánh án tòa án ra quyết định tạm giam trong trường hợp họ chưa bị tạm giam hoặc đang bị tạm giam mà thời hạn tạm giam đã hết và xét thất cần thiết tạm giam hoặc tiếp tục tạm giam.
Khoản 2 Điều 278 BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử (quy định tại khoản 1 Điều 277 BLTTHS). Theo đó, thời hạn tạm giam đối với bị can không quá 30 ngày đối với tội ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (kể từ ngày thụ lý vụ án).
Đối với vụ án có tính chất phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn tạm giam nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Như vậy, thời hạn tạm giam đối với bị can trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm tối đa là 45 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tối đa 04 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
7.4. Thời hạn tạm giam khi áp dụng thủ tục rút gọn
Thời hạn tạm giam bị can trong giai đoạn điều tra không quá 20 ngày, trong giai đoạn truy tố không quá 05 ngày và đều không gia hạn thêm.
Việc quy định thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố phải phù hợp với thời hạn điều tra, truy tố (tối đa là 20 ngày để điều tra kể từ ngày ra quyết định khởi tố, 05 ngày để xem xét việc truy tố kể từ ngày nhận được quyết định đề nghị truy tố và hồ sơ vụ án).
Đối với giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Điều 462 BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là 10 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án để Thẩm phán được phân công xét xử ra quyết định. Trong khi đó, khoản 3 Điều 459 cũng quy định thời hạn tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm không quá 17 ngày (tương đương với thời hạn xét xử).
Do đó, có thể xác định, thời hạn tạm giam bị can trong giai đoạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục rút gọn tối đa là 10 ngày và không gia hạn thêm. So với thủ tục thông thường thì thời hạn tạm giam bị can theo thủ tục rút gọn là tương đối ngắn.
Quy định như vậy nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đảm bảo hoàn thành đúng thời hạn việc điều tra, truy tố, xét xử, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử ý nhanh chóng các vụ án có tình tiết đơn giản, đồng thời không xâm phạm đến các quyền. lợi ích chính đáng của bị can.
7.5. Cách tính thời hạn tạm giam
Theo Điều 134 BLTTHS năm 2015 quy định, khi tính thời hạn tạm giam thì thời hạn hết vào ngày kết thúc thời hạn được ghi trong lệnh, quyết định tạm giam. Thời hạn tạm giam sẽ hết vào lúc 24 giờ ngày cuối cùng của thời hạn đó.
Nếu thời hạn được tính bằng tháng thì 01 tháng được tính là 30 ngày, không tính ngày theo tháng thiếu hoặc tháng thừa (28 hay 31 ngày).
Khi tính thời hạn theo tháng, thời hạn hết vào ngày trùng của tháng sau; nếu tháng đó không có ngày trùng thì thời hạn hết vào ngày cuối cùng của tháng đó, nếu thời hạn hết vào ngày nghỉ thì ngày làm việc đầu tiên tiếp theo được tính là ngày cuối cùng của thời hạn./.
Xem thêm bài viết:
Trả lời