Mục lục
Quan điểm lịch sử và nền tảng lý luận về bảo đảm quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự thế giới
Xem thêm bài viết về “Người bào chữa”
- Quy định về chỉ định người bào chữa trong tố tụng hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Thông báo thời gian tiến hành hoạt động tố tụng cho người bào chữa – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu của người bào chữa – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Người bảo vệ quyền, lợi ích của người bị tố giác, kiến nghị khởi tố – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
TÓM TẮT
Theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ/TW ngày 2/1/2002 và Nghị quyết 49/NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải cách tư pháp đó là mở rộng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự, trong đó nhấn mạnh đến việc mở rộng hơn nữa quyền của người bào chữa (NBC) và của người bị buộc tội khi tham gia vụ án hình sự. Việc nhìn nhận đúng đắn ý nghĩa của hoạt động bào chữa nói chung và vai trò của người bào chữa nói riêng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thực sự là một yếu tố quyết định tính đúng đắn, toàn diện và khách quan của bản án của Tòa án. Để cung cấp thêm những hiểu biết về sự hình thành và vai trò quan trọng của việc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự (TTHS), bài viết này nhằm giới thiệu đến độc giả, những nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định pháp luật kết quả nghiên cứu tổng quan về nguồn gốc và những nền tảng pháp lý của quyền có NBC trong tố tụng hình sự thế giới. Qua đó, chỉ ra những triết lý pháp lý của việc hình thành và bảo đảm quyền có NBC của người bị buộc tội. Điều này, theo tác giả, là cần thiết cho việc định hướng tiếp tục sửa đổi Hiến pháp và Bộ luật TTHS trong thời gian tới.
1. Quan điểm lịch sử về bảo đảm quyền có người bào chữa
Trong lịch sử pháp luật ở mỗi thời kỳ, không có định nghĩa chính thức nào về quyền có NBC. Tuy nhiên, quyền của một người bị cáo buộc về một tội phạm hình sự được nhận sự hỗ trợ của NBC không phải là một khái niệm mới. Quyền này xuất hiện rất sớm và gắn liền với các hoạt động xét xử tại phiên tòa. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng, phiên tòa cho phép bị cáo được bào chữa thông qua NBC có thể đã xuất hiện từ cách đây nhiều thế kỷ[1]. Có nhiều học giả đã đề cập đến Leges Henrici Primi, được biết đến là đạo luật của vua Hennry I và là tài liệu tham khảo bằng văn bản đầu tiên liên quan đến quyền bào chữa ở Anh. Đây là một tập hợp các đạo luật phổ biến, những điều được tin tưởng trong thời kỳ đầu của thế kỷ 12[2]. Bản dịch của cuốn sách này là bản bằng tiếng La Mã, nhưng đã có chỉnh sửa. Tuy nhiên, đối với quyền có NBC, tất cả những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đều dẫn đến một đoạn trong quyển sách mà Donahue Jr. đã cố gắng dịch ra như sau: “Những vụ án tù chung thân thường hạn chế người bị buộc tội tìm kiếm sự trợ giúp bởi consilium; đúng hơn là để cho anh ta ngay lập tức phủ nhận [cáo buộc] mà không cần phải biện hộ [và] cũng không có bất kỳ yêu cầu về consilium hoặc bất cứ quốc gia hay tiểu bang mà anh ta được bảo hộ; [sau đó] để cho NBC hoặc ChúaTrời tiếp tục khẳng định việc bào chữa hoặc từ chối bởi một phương pháp chứng minh phù hợp”[3].
Theo phân tích của Donahue Jr, những nghiên cứu về giai đoạn giữa của thời kỳ Trung Cổ cho thấy, người bị buộc tội phải tự bào chữa trong phiên tòa hình sự, để xác nhận rằng anh ta không phải tìm kiếm sự giúp đỡ từ consilium – người đại diện của công chúng, với kiến thức thực tế của vụ án, có thể tác động đến phán quyết của Tòa án về lợi ích của người bị buộc tội. Điều này thực chất có nghĩa là người bị buộc đã không được hưởng sự trợ giúp nào trước và ngay thời điểm của việc tự bào chữa. Sau thời kỳ này, người bị buộc tội có quyền được trợ giúp pháp lý thông qua sự hỗ trợ của một người có kiến thức pháp luật, hay còn gọi là pleader – người biện hộ, người được so sánh với các luật sư chuyên nghiệp ngày nay.
Những phân tích của Donahua Jr. rõ ràng cho thấy, trong suốt thời kỳ Trung cổ, người bị buộc tội thực sự đã được phép nhờ NBC trong một số giai đoạn của quá trình tố tụng[4]. Quan điểm này dường như được chia sẻ bởi nhiều học giả khác[5]. Một điều khá rõ ràng được chỉ ra từ những nghiên cứu của các học giả về pháp luật thành văn cho thấy, trong thời kỳ này, người bị buộc tội đã được phép tự mình bào chữa những vấn đề liên quan đến vụ việc của mình. Việc chấp nhận và cho phép quyền được nhờ NBC, nếu có thể, cũng chỉ tập trung vào việc giải quyết các khía cạnh pháp lý của vụ án. Tuy nhiên, điều này chỉ được ghi nhận trong một vài vụ việc cụ thể vào thế kỷ 14 rằng quyền nhờ NBC không được công nhận trong những vụ trọng tội[6].
Cũng trong nghiên cứu của nhiều tác giả,[7] quyền có NBC được ghi nhận là xuất hiện cùng với sự hình thành của hệ thống tố tụng tranh tụng[8] (adversarial system) ra đời và phát triển vào thế kỷ 16, 17 và là kết quả của nhiều cuộc đấu tranh đòi nhà vua phải thay đổi cách thức tiến hành phiên tòa xét xử bị cáo với sự tham gia của NBC. Như đã đề cập, những biểu hiện ban đầu của quyền bào chữa là cho phép người bị buộc tội được tự bào chữa. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử vào thời điểm này đã chứng minh rằng việc tự bào chữa của bị cáo trước tòa án (cơ quan đại diện cho quyền lực của nhà vua) thực sự là một thách thức lớn với anh ta và thậm chí có thể dẫn tới những bất lợi, đặc biệt là trong những vụ án nghiêm trọng. Chính vì vậy, quan điểm cho rằng bị cáo cần được hỗ trợ pháp lý bởi NBC trong quá trình xét xử đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ nhiều giới. Trong suốt thời kỳ từ thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 17, cùng với các phương pháp tìm kiếm chứng cứ trở nên phổ biến tại phiên tòa hình sự, quyền có NBC của người bị buộc tội cũng phát triển tương đối phức tạp. Trước hết, quyền này dường như chỉ được công nhận cho những tội ít nghiêm trọng (khinh tội). Nội dung này được tìm thấy trong nghiên cứu của Bulstrode Witelocke như sau: “Người thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật hoặc gây thiệt hại trị giá 6 đồng penni[9] có thể được nhờ NBC biện hộ cho mình”[10].
Có thể nói, việc ghi nhận quyền có NBC được xem là sự phản kháng đối với việc từ chối NBC tham gia vào các vụ án nghiêm trọng trong đó bị cáo buộc phải xuất hiện trước phiên tòa với lời tự bào chữa của chính mình[11]. Từ năm 1836, quyền này được bảo đảm trọn vẹn không chỉ đối với những vụ khinh tội mà cả những vụ trọng tội[12]. Biểu hiện này cho thấy, quyền được đại diện bởi NBC là cách thức mở rộng từ quyền tự bào chữa, khi mà việc tự bào chữa của các bị cáo được cho là không an toàn và không có giá trị trước nhà vua. Các nhà nghiên cứu cho rằng, việc chấp nhận NBC thực sự là một bước tiến đối với toà án, trong đó, kết quả của phán quyết sẽ thực sự bị chi phối và ảnh hưởng bởi vai trò của NBC hơn là phán quyết của một phiên tòa không có NBC[13]. Quan điểm này đã đặt nền móng cho việc hình thành các cơ chế bảo đảm quyền có NBC cho bị cáo trong các hệ thống thông luật, và là một trong những tiêu chí của một phiên tòa tranh tụng (adversarial trial)[14].
Những biểu hiện ban đầu về bảo đảm quyền có NBC không chỉ dừng lại ở việc chấp nhận cho bị cáo có quyền có NBC trong các vụ án nghiêm trọng, mà còn biểu hiện ở chính sách nhân đạo, như là một đặc ân của nhà vua với những bị cáo là người nghèo[15]. Nghiên cứu của Swygert đã chỉ ra rằng, nước Anh có một truyền thống lâu đời trải dài năm thế kỷ về cung cấp NBC miễn phí cho người nghèo trong các vụ án hình sự và vụ án dân sự[16]. Truyền thống này bắt đầu từ năm 1494 khi Quốc hội thông qua đạo luật ghi nhận các Tòa án ở Anh có nghĩa vụ phải cung cấp NBC miễn phí cho bị cáo là người nghèo. Tuy nhiên việc áp dụng trong thực tế lại rất hạn chế[17].
Đây được coi là biểu hiện pháp lý đầu tiên trong việc bảo đảm quyền có NBC đối với người nghèo, mặc dù bảo đảm này không đương nhiên được ghi nhận trong lịch sử phát triển của từng hệ thống tư pháp riêng lẻ trên thế giới, ngay cả khi quyền này được được quy định trong hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người[18]. Có thể nói, những quan điểm trên đã có những tác động hiệu quả đến nhận thức của các nhà làm luật trong các thời kỳ sau này. Hầu hết các học giả đều nhận thấy rằng hệ thống tố tụng tranh tụng công bằng luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng của NBC trong việc đem lại sự công bằng[19]. Không chỉ các thẩm phán ở Anh mà ở nhiều quốc gia khác có sử dụng hệ thống tố tụng tranh tụng đều thừa nhận khái niệm về quyền có NBC liên quan đến hai vấn đề: thứ nhất, người bị buộc tội có quyền được nhờ NBC để bảo vệ anh ta trước những cáo buộc của nhà nước; và thứ hai, nhà nước có nghĩa vụ cung cấp NBC cho bị cáo nếu anh ta không có khả năng tự thuê NBC[20]. Những dấu hiệu lịch sử về cách thức bảo đảm quyền có NBC được xem như một chỉ dẫn đầu tiên cho việc ghi nhận và phát triển quyền này trong hầu hết các hệ thống tố tụng hình sự ngày nay[21].
Sự phát triển quyền có NBC ở Anh đã nhanh chóng lan tỏa sang các quốc gia Châu Âu khác, đặc biệt là những nước có truyền thống tố tụng thẩm vấn. Những quan điểm tiến bộ về hệ thống tố tụng tranh tụng của Anh đã bắt đầu được tiếp thu ở Pháp vào thế kỷ 17[22]. Giống các quốc gia khác trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, Pháp là điển hình của hệ thống tố tụng thẩm vấn có nguồn gốc từ pháp luật La Mã được khôi phục lại từ thế kỷ 13[23]. Không giống với hệ thống thông luật, ban đầu, quyền có NBC không được chấp nhận, thậm chí điều này còn được ghi rõ trong văn bản pháp luật. Ví dụ, Điều 162 Nghị quyết năm 1539 đã quy định: “Trong các vụ án hình sự, các bên không được xét xử với sự tham gia của NBC hoặc bất cứ bên thứ ba nào; họ phải tự mình trình bày ý kiến về các vấn đề mà họ bị cáo buộc”[24]. Mặc dù nội dung truyền đạt khá rõ ràng về mặt ngôn ngữ, việc vận dụng trong thực tiễn bởi các Tòa án Pháp luôn cho thấy xu hướng ghi nhận quyền có NBC trên cơ sở của việc bảo đảm tính nhân văn của pháp luật. Nhiều thẩm phán đã ủng hộ việc chấp nhận sự tham gia của NBC, thậm chí còn đề cập đến việc chỉ định NBC trong những trường hợp cần thiết. Trong khi đó, một vài thẩm phán vẫn giải thích quy định của điều khoản trên một cách cứng nhắc và từ chối sự tham gia của NBC trong mọi vụ việc[25].
Thời điểm nước Pháp ban hành bản Nghị quyết năm 1670, quyền có NBC đã được chính thức được đưa ra bàn luận. Các thủ tục tố tụng hình sự của Pháp đã trở nên: thực sự bí mật, không chỉ trong việc mọi thứ diễn ra nằm ngoài sự hiểu biết của công chúng mà còn trong việc không ban hành bất cứ một văn bản pháp luật nào dành cho người bị buộc tội. Sự trợ giúp của NBC cũng như quyền tự do thu thập chứng cứ của người bị buộc tội bị tước đoạt[26].
Hội nghị thảo luận về Nghị quyết năm 1670 đã đề xuất phương án khắc phục sự bất cập trên. Ý kiến của Guillaume de Lamoignon, Tổng thống đầu tiên của Pháp được cho là có tầm ảnh hưởng đến những ghi nhận sau này về quyền có NBC. Ông cho rằng: “Không có tội ác nào có thể xảy ra trong hoạt động xét xử ngoài sự so sánh giữa nguyên nhân dẫn đến cái chết của một người vô tội được cho là tốt hơn việc tha bổng một ngàn kẻ phạm tội. Quyền bào chữa… không chỉ là một đặc quyền được ghi nhận trong Nghị quyết và các văn bản pháp luật mà là biểu hiện lẽ tự nhiên thuộc bản chất của pháp luật, điều đã tồn tại từ rất lâu trước sự ra đời của pháp luật về quyền con người”[27].
Phát biểu của Lamoignon về quyền có NBC có giá trị ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ sau đó[28]. Nhưng nó dường như không hề được nhắc đến trong suốt thời kỳ trị vì của vua Louis 14. Nghị quyết năm 1670 với phiên bản cuối cùng vẫn ngăn cấm sự tham gia của NBC trong các vụ về tội tử hình. Cho đến năm 1808, Bộ luật Napoleon về TTHS đã ghi nhận sự tham gia bắt buộc của NBC trong các phiên tòa xét xử đại hình và NBC được quyền xuất hiện trong giai đoạn điều tra tiền xét xử[29]. Sau đó không lâu, người bị buộc tội ở Pháp được quyền có NBC, nếu anh ta không có khả năng thuê NBC, tòa án sẽ chỉ định NBC cho anh ta[30].
Tóm lại, so với Anh, các quốc gia có truyền thống tố tụng thẩm vấn nhìn nhận sự có mặt của NBC trong vụ án hình sự có phần muộn màng hơn. Tuy nhiên, cả hai hệ thống (tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn) đều cùng có chung một quan điểm, đó là bảo đảm quyền có NBC là một quyền con người cơ bản của người bị buộc tội và Nhà nước có nghĩa vụ hỗ trợ cho họ thực hiện quyền chính đáng của mình.
Có thể nói, quyền có NBC có nguồn gốc gắn liền với sự hình thành của mô hình tố tụng tranh tụng, một truyền thống chứa đựng nhiều yếu tố bình đẳng giữa các bên khi tham gia tố tụng. Đó là việc thừa nhận sự đấu tranh cân sức giữa hai lực lượng đối trọng, giữa người bị buộc tội và người buộc tội. Chính vì vậy, quyền có NBC là quyền tố tụng thuộc về người bị buộc tội – người bị nhà nước cáo buộc đã thực hiện một hành vi phạm tội. Những nghiên cứu lịch sử cho thấy, mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng việc bảo đảm quyền có NBC luôn gắn liền với trách nhiệm của nhà nước. Trong trường hợp người bị buộc tội là người nghèo hoặc có hoàn cảnh khó khăn, họ luôn được hưởng những hỗ trợ đặc biệt. Ngoài ra, quyền có NBC được áp dụng qua hai cách thức: NBC do bị cáo tự trả tiền hoặc do tòa án chỉ định.
Ngày nay, những biểu hiện này vẫn được duy trì và là nền tảng cơ bản trong các hệ thống pháp luật. Quyền có NBC đã được ghi nhận trong hiến pháp và pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Hơn thế, quyền này đã được quy chuẩn hóa trong các Công ước quốc tế về quyền con người. Những điều khoản này như một khung pháp lý chuẩn mực đối với các quốc gia trong việc bảo đảm quyền có NBC. Sự bảo đảm này, trong các Công ước quốc tế về quyền con người, theo Stephan Trechsel, có nghĩa là quyền được cung cấp NBC chuyên nghiệp và các dịch vụ về người bào chữa[31].
Trên đây là những kiến thức lịch sử về nguồn gốc quyền có NBC được tác giả tóm tắt từ hai hệ thống tố tụng hình sự (TTHS) đại diện cho hai mô hình tố tụng, bao gồm tố tụng tranh tụng (Anh) và tố tụng thẩm vấn (Pháp). Có thể nói, đây là hai hệ thống tư pháp hình sự có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với quá trình hình thành và phát triển quyền có NBC trên thế giới. Mặc dù vậy, sự ghi nhận quyền có NBC cũng như việc thiết lập các cơ chế bảo đảm quyền là không hoàn toàn giống nhau giữa các hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, ở một nghĩa chung nhất, việc ghi nhận quyền có NBC là một kết quả tất yếu khách quan và là một khía cạnh quan trọng trong việc bảo đảm sự công bằng của quá trình tố tụng.
2. Nền tảng pháp lý của quyền có người bào chữa
Xét về bản chất của TTHS, các hoạt động cáo buộc của nhà nước đối với cá nhân người bị buộc tội luôn thể hiện sự không cân bằng. Chính vì vậy, người bị buộc tội phải được trang bị những quyền pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Công việc này, hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ đơn thuần là bảo đảm quyền lợi cho người bị buộc tội mà còn bảo đảm tính khách quan và công bằng trong quá trình TTHS. Đây là cặp phạm trù giữa cái chung và cái cụ thể. Do đó, bảo đảm quyền của người bị buộc tội nói chung và bảo đảm quyền có NBC nói riêng cần phải dựa trên nền tảng về sự công bằng giữa các bên trong TTHS. Những kiến thức về TTHS cho thấy quyền có NBC được ghi nhận dựa trên học thuyết về thủ tục tố tụng công bằng (due process of law) và nguyên tắc xét xử công bằng (right to fair trial). Những nội dung được trình bày dưới đây nhằm làm sáng tỏ mối liên hệ giữa những học thuyết cơ bản trong TTHS với sự hình thành quyền có NBC. Qua đó, khẳng định tầm quan trọng của những nền tảng pháp lý trong việc bảo đảm quyền có NBC.
2.1. Tố tụng công bằng (due process of law)
Trong hầu hết pháp luật của mỗi quốc gia, chúng ta dễ dàng nhận thấy thuật ngữ về quyền hoặc nguyên tắc ‘xét xử công bằng’ với nội dung đầy đủ là quyền pháp lý cơ bản của công dân được đảm bảo xét xử công bằng khi tham gia tố tụng. Nguồn gốc của quyền này đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử pháp luật thế giới và gắn liền với học thuyết về ‘tố tụng công bằng’. Vào thời điểm xuất hiện, khái niệm về ‘tố tụng công bằng’ chỉ được hiểu đơn thuần là tư tưởng tiến bộ nhằm bảo vệ quyền con người trước những quy định, thủ tục hà khắc của pháp luật. Tuy nhiên, ngày nay, nội dung cơ bản nhất của ‘tố tụng công bằng’ đã được thừa nhận và tiếp tục phát triển không chỉ trong giới học giả mà còn được ghi nhận trong quan điểm lập pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Việc tìm hiểu nguồn gốc về ‘tố tụng công bằng’ sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của việc bảo đảm quyền công dân – một bảo đảm pháp lý cơ bản về quyền của con người nói chung và quyền của người bị buộc tội nói riêng.
Những biểu hiện ban đầu về nguyên tắc tố tụng công bằng cũng được tìm thấy trong Luật 12 Bảng (the Law of the Twelve tables)[32]. Đạo luật này được coi là văn bản luật thành văn đầu tiên của Cộng hòa La Mã cổ đại, ra đời vào khoảng năm 455 trước công nguyên. Sự ra đời của Đạo luật này được xem là kết quả của cuộc đấu tranh đòi sự công bằng về quyền lợi của một số ít người dân thuộc tầng lớp trung lưu trước những bất công của tầng lớp quý tộc vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên. Nội dung của Đạo luật được quy định ở 12 Điều khoản, đề cập chủ yếu đến việc bảo đảm quyền lợi chính đáng của người dân trước pháp luật, trong đó nhấn mạnh đến quyền được công bằng trong xét xử quy định tại Điều 2 (1); nguyên tắc công bằng giữa các công dân quy định tại Điều 9 (1); nguyên tắc nghiêm cấm mọi hành vi hối lộ cho cơ quan xét xử quy định tại Điều 9 (3).
Ở khía cạnh vụ việc hình sự, Đạo luật đã ghi nhận sự công bằng giữa các bên đối trọng tham gia tố tụng. Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của người bị buộc tội, Điều 1 của Đạo luật có nêu: “Nếu một người bị cáo buộc về một tội phạm nào đó, thì không chỉ họ mà cả người cáo buộc đều phải có mặt trước phiên tòa xét xử.” Bên cạnh đó, Điều 9 cũng đưa ra những nguyên tắc trừng phạt nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm thủ tục tố tụng của những người tham gia xét xử vụ việc, cụ thể là, hình phạt tử hình có thể được áp dụng cho Thẩm phán nếu nhận hối lộ để tuyên vô tội đối với một hành vi phạm tội (Điều 9.4); hay nghiêm cấm mọi hành vi áp dụng hình phạt tử hình đối với người có thể không bị buộc tội (Điều 9.6).
Có thể nói, Đạo luật trên được coi là dấu hiệu pháp lý đầu tiên ghi nhận về tố tụng công bằng. Mặc dù những quy định của Đạo luật còn chưa toàn diện và ít được nhắc đến, những tư tưởng của Đạo luật đã được tiếp thu và phát triển trong pháp luật hiện đại[33], cho thấy những quan điểm tiến bộ trong vấn đề bảo đảm quyền công dân trước pháp luật nói chung và bảo đảm quyền của người bị buộc tội nói riêng. Ở thời điểm này, quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa được đề cập. Tuy nhiên, những yếu tố nền tảng về một thủ tục tố tụng công bằng chính là cơ sở cho sự phát triển sau này trong việc bảo đảm quyền của người bị buộc tội, trong đó có quyền bào chữa. Những dấu hiệu tương tự liên quan tới tố tụng công bằng cũng được tìm thấy ở trong pháp luật những nước Châu Âu lục địa sau này. Tuyên ngôn của Pháp về quyền con người và công dân năm 1789 và Bộ luật Napoleon năm 1808 đã ghi nhận rằng bị cáo được bảo đảm quyền suy đoán vô tội và cần phải có người đại diện bảo vệ trước tòa án. Tinh thần của quy định này đã lan truyền và gây ảnh hưởng tới những bộ luật của nhiều quốc gia theo hệ thống Dân luật khác ở Châu Âu.
Tương tự, khái niệm về tố tụng công bằng được bắt nguồn từ rất sớm trong pháp luật của Anh. Năm 1215, Vua John đã buộc phải ghi nhận trong Bản Hiến Chương Magna Carta[34] như sau: “Không ai bị bỏ tù hoặc bị tước đoạt về tài sản, sự tự do hoặc bị đặt ngoài vòng pháp luật, bị đày ải hay bất cứ sự trừng phạt nào, trừ khi có quyết định theo đúng trình tự được quy định bởi pháp luật trên lãnh thổ.” Bản Hiến chương Magna Carta ngay tức khắc đã trở thành một phần của pháp luật của vương quốc Anh. Tuy nhiên, nó chỉ đơn thuần đòi hỏi chế độ quân chủ phải tuân thủ pháp luật quốc gia. Năm 1354, dưới thời kỳ trị vì của vua Edward III, cụm từ tố tụng công bằng lần đầu tiên xuất hiện trong một ấn bản của Hiến chương Magna Carta. Cụm từ này được dùng để giải thích sự bảo đảm dựa trên nội dung: “Không ai bị tước đoạt quyền sống, quyền thừa kế, quyền có nhà ở mà thiếu sự bảo đảm bởi một trình tự tố tụng công bằng.”
Có thể nói, nội dung cơ bản trong cả hai văn bản pháp lý nói trên (Luật 12 Bảng và Hiến chương Magna Carta) đều nhấn mạnh tố tụng công bằng là một yêu cầu cần thiết trong việc bảo đảm quyền con người nói chung và quyền của người bị buộc tội nói riêng. Đây được coi là bảo đảm pháp lý đầu tiên của quyền có NBC của người bị buộc tội.
Ở góc độ lý luận, nguồn gốc về tố tụng công bằng đã được nhiều nhà nghiên cứu vận dụng để tiếp tục khẳng định ý nghĩa của một thủ tục công bằng trong việc bảo đảm quyền của người bị buộc tội nói chung và quyền có NBC nói riêng.
Năm 1608, một học giả người Anh là Edward Coke đã thể hiện quan điểm của mình về nội dung của Bản Hiến chương Magna Carta trong một bài xã luận trong đó ông cho rằng: “sẽ thiếu vắng câu trả lời nếu mọi thứ không được bảo đảm bởi một thủ tục công bằng do nhà nước ban hành”[35]. Bên cạnh đó, Coke đã chỉ ra một chuỗi những quyền phổ biến của công dân trong cuộc sống của họ, trong đó có các quyền tố tụng[36]. Trong suốt thời kỳ lịch sử này, ở Anh đã có nhiều quy định ghi nhận những luật lệ khác nhau liên quan đến “tố tụng công bằng” hoặc “pháp luật của lãnh thổ”, tuy nhiên chúng chỉ đơn thuần mang tính hình thức mà ít có giá trị áp dụng[37].
Sau Edward Coke, một học giả khác người Mỹ là Herbert Baker cũng đã cụ thể hóa khái niệm về tố tụng công bằng qua việc nhìn nhận mục đích của nó trong quá trình chứng minh tội phạm. H. Packer nhìn nhận cách thức chi phối nền tư pháp hình sự được đánh giá qua hai mô hình nền tảng, đó là: mô hình kiểm soát tội phạm (crime control model) và mô hình Tố tụng công bằng (due process model). Mô hình kiểm soát tội phạm được dựa trên luận điểm cho rằng việc trấn áp các hành vi phạm tội là chức năng cơ bản của tố tụng hình sự[38]. Mô hình này được thiết lập để bảo vệ quyền lợi của công dân bằng cách đòi hỏi sự tuân thủ pháp luật và những chế tài hình sự. Theo đó, cảnh sát đóng vai trò trọng yếu trong việc xác định sự phạm tội và những tiến trình tố tụng tiếp theo cần được giảm thiểu càng nhiều càng tốt. Công cụ pháp lý trong mô hình tố tụng này là một thủ tục hành chính nhằm xem xét, tìm hiểu sự thật của vụ án cũng như chứng minh sự phạm tội.
Ngược lại, mô hình tố tụng công bằng dựa trên nền tảng của sự bình đẳng, khách quan. Các chủ thể khi tham gia tố tụng đều được bảo vệ quyền lợi như nhau nếu họ có cùng tư cách tố tụng. Mô hình này được thiết lập nhằm bảo vệ quyền của người bị buộc tội bằng cách hạn chế những thủ tục hà khắc trong tiến trình tố tụng[39]. Theo đó, một người chỉ có thể bị coi là phạm tội khi sự thật được chứng minh một cách rõ ràng theo pháp luật bằng một tòa án có thẩm quyền. Trong mô hình tố tụng này, nguyên tắc suy đoán vô tội đóng vai trò quyết định. Quan điểm này của Packer nhằm nhấn mạnh nội dung của Tu chính án thứ mười bốn của Hiến pháp Mỹ: “không ai bị tước đoạt cuộc sống và sự tự do mà mà thiếu thủ tục công bằng.”
Có thể nói, những quan điểm trên đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc phát triển khái niệm về tố tụng công bằng. Ngay từ ban đầu, tố tụng công bằng nhằm nhấn mạnh cách thức xây dựng những thủ tục hợp lý như là công cụ bảo đảm quyền con người. Tính công bằng của tiến trình pháp lý có ý nghĩa đặc biệt trong một vụ án hình sự và ảnh hưởng của ý tưởng về thủ tục pháp lý trong các vụ án hình sự là rõ ràng. Điều này lý giải yêu cầu về sự cân bằng hợp lý giữa các bên trong khi giải quyết vụ án; đồng thời liên quan đến việc bảo vệ các quyền của người bị buộc tội, bao gồm quyền có NBC.
Những quan điểm đại diện của hệ thống Thông luật cho chúng ta thấy tố tụng công bằng là bảo đảm đầu tiên cho quyền của người bị buộc tội. Bảo đảm này cũng chính là nền tảng của một phiên tòa tranh tụng coi trọng vai trò chủ động của NBC[40]. Hình thức về phiên tòa tranh tụng công bằng không chỉ là đặc trưng của các nước có truyền thống tố tụng tranh tụng mà còn là định hướng trong rất nhiều hệ thống pháp luật châu Âu lục địa với mô hình tố tụng thẩm vấn[41]. Đã từ lâu, yêu cầu về tố tụng công bằng là một tiêu chí cốt lõi trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật TTHS nói chung bảo đảm quyền của người bị buộc tội nói riêng. Một điều hiển nhiên, tố tụng công bằng luôn đi đôi và gắn liền với nguyên tắc xét xử công bằng. Mối liên hệ này cho thấy, để bảo đảm các quyền tố tụng của người bị buộc tội, bao gồm quyền có NBC, trước hết phải có một thủ tục tố tụng công bằng, nơi mà những quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong vụ án được xem xét một cách khách quan và chính xác.
2.2. Nguyên tắc xét xử công bằng (principle of the right to fair trial)
Qua những phân tích ở phần trên, nội dung nền tảng của lý thuyết về tố tụng công bằng chính là sự công bằng. Tính công bằng biểu đạt hai nội dung: (1) mọi thủ tục tố tụng được tiến hành công bằng, và (2) các bên trong quá trình tố tụng phải được đối xử công bằng. Ở phía người bị buộc tội, sự công bằng đòi hỏi trước hết từ trách nhiệm của những người có thẩm quyền đưa ra các phán quyết, cụ thể là Tòa án. Theo đó nguyên tắc xét xử công bằng được xem là một công cụ bảo vệ quyền lợi của cá nhân trước sự chuyên quyền của nhà nước.
Ở khía cạnh lịch sử, quyền được xét xử công bằng có mối liên hệ chặt chẽ với khái niệm về tố tụng công bằng được ghi nhận từ rất lâu trong Hiến chương Magna Carta vào năm 1215[42]. Ở phương diện lý luận, nguyên tắc (quyền) được xét cử công bằng được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh khác nhau. Về mặt hình thức, tác giả Stefan Trechsel cho rằng việc đảm bảo quyền xét xử công bằng tức là bảo đảm một ‘thủ tục công bằng’ hơn là sự mong mỏi một ‘kết quả công bằng’, giống như việc đưa ra một quyết định hay phán quyết phải dựa trên sự thật khách quan và sự tuân thủ pháp luật[43]. Tương tự, quan điểm của các nhà làm luật ở Anh cho rằng, quyền được xét xử công bằng bao gồm nhiều yếu tố, tập trung chủ yếu vào những tiêu chí sau: phiên tòa độc lập và công bằng, bản án của Tòa án phải là kết quả dựa trên sự xem xét công khai với những lý lẽ thuyết phục trong khoảng thời gian hợp lý[44].
Về mặt nội dung, quyền được xét xử công bằng được nhìn nhận là một điều kiện để bảo vệ chân lý khách quan. Đại diện cho quan điểm này, tác giả Danny J. Boggs cho rằng: “yếu tố xác định sự khách quan, không thiên vị của người thẩm phán thể hiện trong việc xem xét toàn diện những chứng cứ liên quan và loại bỏ những chứng cứ không liên quan nhằm mục đích thúc đẩy những cơ hội để đi đến một kết luận phù hợp với sự thật khách quan của vụ án”[45]. Như vậy, hiểu một nghĩa chung nhất, để bảo đảm quyền được xét xử công bằng được thực thi trên thực tế, cơ quan xét xử phải độc lập và công bằng. Nếu thiếu một trong hai yếu tố trên sẽ không có sự công bằng. Yếu tố độc lập có nghĩa là tòa án và thẩm phán không lệ thuộc vào bất cứ cá nhân hoặc tổ chức nào của cơ quan nhà nước[46]. Đồng thời, sự công bằng được hiểu là sự xem xét thấu đáo các tình tiết của vụ án cũng như những quy định của pháp luật có liên quan[47], và thẩm phán không được có định kiến đối với các bên tham gia tố tụng[48].
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, bảo đảm nguyên tắc quyền được xét xử công bằng là cơ sở vững chắc trong việc bảo đảm quyền có NBC. Năm 1993, M. Cherif Bassiouni[49] đã chỉ ra trong một nghiên cứu của mình rằng có không dưới 38 bản hiến pháp có những quy định bảo vệ quyền được xét xử công bằng thông qua phiên tòa công khai trong các vụ án hình sự. Tuy nhiên, tác giả này cũng nhận ra rằng có nhiều bản hiến pháp khác mặc dù không quy định trong một điều luật cụ thể nhưng vẫn hàm chứa quan điểm có thể được giải thích như là một đảm bảo đối với một quyền tương tự. Hầu hết các bản hiến pháp đều có những quy định đề cập đến quyền của người bị buộc tội trong các vụ án hình sự, chủ yếu các quy định về quyền bào chữa. Ví dụ, có 7 bản hiến pháp ghi nhận những đảm bảo cần thiết cho quyền bào chữa. Từ đó, Cherif cho rằng quyền bào chữa có mối liên hệ mật thiết với quyền được xét xử công bằng và luôn được áp dụng chung với quyền này để giải quyết vụ việc[50].
Bên cạnh đó, quyền bào chữa, một cách riêng biệt, được bảo đảm trong hiến pháp của 21 quốc gia, mặc dù các giải thích cụ thể của quyền này không chỉ hiển nhiên nằm trong hiến pháp. Nó thuần túy đề cập đến quyền xét xử công bằng nhưng cụ thể cũng bao gồm quyền được có luật sư bào chữa, hay thậm chí đơn giản là quyền tự bào chữa. Trong 10 bản hiến pháp còn lại, quyền có NBC được ghi nhận là một quyền cần được bảo đảm “trong tất cả các giai đoạn tố tụng”. Nghiên cứu của Cherif cho thấy, quyền có NBC là một bảo đảm tối thiểu của quyền được xét xử công bằng. Hay nói cách khác, nguyên tắc xét xử công bằng cũng chính là một đảm bảo pháp lý cơ sở cho việc bảo đảm quyền của người bị buộc tội nói chung và quyền có NBC nói riêng.
Khi thảo luận về quyền được xét xử công bằng, Cherif nhìn nhận ở hai khía cạnh: thứ nhất, quyền được xét xử công bằng là biểu hiện của sự bình đẳng giữa các bên; thứ hai, là quyền được tranh tụng ngang bằng[51]. Chia sẻ quan điểm này với Cherif, một học giả khác cho rằng, nguyên tắc “bình đẳng giữa các bên” ám chỉ rằng mỗi bên đều phải được trao những cơ hội hợp lý như nhau để trình bày ý kiến về vụ án – kể cả các bằng chứng của bên đó – trong điều kiện không bất lợi hơn so với bên đối trọng[52]. Theo đó, tòa án chỉ đưa ra kết luận của mình trong điều kiện cả hai bên buộc tội và bên bào chữa phải được trao những cơ hội ngang bằng nhau để tìm hiểu và trình bày ý kiến về những thông tin trong hồ sơ của vụ án cũng như những chứng cứ được viện dẫn của phía bên kia[53]. Điều này có nghĩa là không thể kết luận gì về vụ án nếu như một bên trong quá trình tố tụng không được đảm bảo đầy đủ và trọn vẹn các điều kiện cần thiết theo quy định của pháp luật, trừ khi anh ta đã được thông báo trước đó về tình trạng pháp lý của mình trong vụ việc.
Tất nhiên, quyền này cũng đề cập đến trách nhiệm của tòa án là phải xem xét quyền có NBC, là một điều kiện tiên quyết tác động đến hiệu quả của tranh tụng công bằng. Quan điểm này cho thấy, thuật ngữ ‘công bằng giữa các bên’ hàm chứa tiêu chí của sự so sánh. Việc so sánh về động thái giữa các bên đối trọng trong vụ án phải được đảm bảo để từ đó có thể xác định chắc chắn những bất lợi trong tiến trình áp dụng pháp luật. Theo đó, khái niệm ‘tố tụng tranh tụng’ bao hàm trong nó bản chất của sự tranh luận công bằng giữa các bên đối trọng trong vụ án.
Bên cạnh đó, khía cạnh nền tảng nhất của sự công bằng trong tố tụng chính là quyền được lắng nghe[54]. Trong vụ án hình sự, yếu tố bình đẳng giữa các bên đòi hỏi bên bào chữa phải được đối xử công bằng với bên buộc tội. Tất cả những chứng cứ bằng văn bản của phía buộc tội trình lên trước tòa án phải được thông tin cho phía bào chữa để họ có thể phản ánh quan điểm bào chữa của mình[55].
Cũng giống những quan điểm nêu trên về quyền xét xử công bằng, nhưng các học giả người Đức nhìn nhận yếu tố bảo đảm quyền được xét xử công bằng phụ thuộc rất nhiều vào trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền, cụ thể là tòa án. Theo các tác giả Zipf, Shroeder và Roxin, xác định “nhiệm vụ ủy thác của tòa án” (Fürsorgepflicht des Gerichtes)[56] trong giải quyết các vụ án hình sự bắt nguồn từ quy tắc “faires Verfahrens” (có nghĩa là xét xử công bằng). Điểm cốt lõi của nguyên tắc này chính là nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng phải thông báo và tư vấn cho người bị buộc tội về hậu quả và những bất lợi đối với hành vi phạm tội của họ trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào. Nghĩa vụ này không chỉ áp đặt đối với tòa án mà còn đối với tất cả các cơ quan liên quan đến quá trình tố tụng hình sự (cảnh sát, công tố viên).
Roxin cũng nhấn mạnh rằng nhân tố quan trọng của khái niệm “fairen Verfahrens” (xét xử công bằng) chính là “công bằng giữa các bên” (“Waffeengleichheit”)[57]. Làm rõ hơn quan điểm của Roxin, tác giả E. Muller cho rằng, yếu tố bình đẳng giữa các bên đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải lắng nghe ý kiến của các bên như là nền tảng của việc tìm kiếm sự thật, đồng thời phải coi người bị buộc tội thực sự là chủ thể trung tâm của tiến trình tố tụng[58]. Theo Muller, sự công bằng giữa các bên không chỉ hiểu đơn thuần là một khái niệm mang tính hình thức, và nó không chỉ là sự bình đẳng về quyền của người bị buộc tội với công tố viên. Theo ông, yếu tố công bằng còn phải được hiểu là những bình đẳng về cơ hội (“Chancegleichheit”)[59]. Điều này có nghĩa là mọi sự đối xử thiên lệch đối với một bên trong tố tụng so với bên đối trọng là không chính đáng, bị cấm đoán và bị coi là vi phạm pháp luật[60].
Trước nhiều quan điểm mang tính lý luận đa chiều, mọi vấn đề trở nên tương đối rõ ràng khi quyền được xét xử công bằng được ghi nhận dưới hình thức một văn bản pháp lý. Ngày nay, khái niệm về tố tụng công bằng và quyền được xét xử công bằng gần như đã hòa lẫn vào nhau và tiếp tục được phát triển và là nội dung quan trọng chi phối quá trình xây dựng pháp luật ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Quyền được xét xử công bằng là một trong những quyền cơ bản được ưu tiên bảo đảm nhiều nhất trong pháp luật quốc tế.
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) đã thiết lập những nguyên tắc cơ bản về quyền của người phải đối mặt với những cáo buộc hình sự. Những nguyên tắc này bao hàm trong 3 Điều khoản chủ đạo, đó là: Điều 9 về quyền được bảo vệ trước việc bắt người vô cớ; Điều 10 về quyền được xét xử bởi một phiên tòa công khai với một Hội đồng khách quan, độc lập và công bằng; Điều 11 ghi nhận về những quyền cụ thể, ví dụ như quyền được suy đoán vô tội và quyền được có những bảo đảm hợp lý cho việc bào chữa. Tuân thủ tinh thần chung của UDHR, quyền được xét xử công bằng còn được phản ánh trong các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người. Những quy định về bảo vệ quyền được xét xử công bằng có thể được tìm thấy trong Điều 14 và Điều 16 của Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (ICCPR); Điều 5 và Điều 6 Công ước châu Âu về quyền con người (ECHR); các Điều 3, 8, 9 và 10 Công ước châu Mỹ về quyền con người (AmCHR); Điều 2, 7 và Điều 26 Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc (AfCHPR).
Trên thực tế, khái niệm về quyền được xét xử công bằng được giải thích chi tiết và cụ thể hơn bởi những cơ quan thi hành các Công ước. Ví dụ, theo giải thích của Ủy ban quyền con người của Liên hợp quốc, quyền được xét xử công bằng bao hàm một nghĩa rộng hơn những quyền cá nhân được bảo đảm tại phiên tòa xét xử, đó chính là toàn bộ hoạt động của tòa án[61]. Ý kiến tương tự cũng được bày tỏ bởi Tòa án liên Mỹ về quyền con người (Inter-American Court of Human Rights)[62]. Ở một nghĩa khác, quyền được xét xử công bằng biểu thị tuyệt đối yếu tố công bằng giữa các bên. Theo nhận định của Tòa án nhân quyền Châu Âu trong một vụ việc,“công bằng giữa các bên phải được tuân thủ trong suốt quá trình xét xử, có nghĩa là các bên phải được đối xử một cách bảo đảm công bằng về vị trí trong chính vụ việc của họ”[63]. Trong vụ này, Tòa án nhận thấy quyền được xét xử công bằng đã bị vi phạm khi một bên bị từ chối không được tiếp cận với những tài liệu liên quan trong hồ sơ vụ án.
Ở khía cạnh luật thực định, những văn bản pháp lý quốc tế về bảo đảm quyền công dân trong vụ án hình sự quy định khá giống nhau. Trong đó, quyền được xét xử công bằng được bảo đảm bởi những quyền cụ thể sau: (1) quyền được phán quyết bởi một phiên tòa độc lập và công bằng; (2) quyền được xét xử công khai; (3) quyền được xét xử trong một khoảng thời gian hợp lý; (4) quyền có người bào chữa; (5) quyền được giải thích về lý do buộc tội. Trong TTHS, những khía cạnh bảo đảm sau đây về quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội được áp dụng: (1) quyền được thông báo kịp thời về những cáo buộc; (2) quyền có khoảng thời gian hợp lý và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị quyền bào chữa; (3) quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, và quyền được tự do trao đổi riêng tư với NBC; (4) quyền được trình bày chứng cứ; (5) quyền không phải đưa ra những chứng cứ buộc tội mình; (6) quyền kháng cáo.
Dựa trên những chuẩn mực chung nhất, các quốc gia cũng có những biểu đạt tương đồng về những bảo đảm đối với quyền được xét xử công bằng, và quyền có NBC là một trong những bảo đảm tối thiểu được pháp luật của hầu hết các nước tôn trọng. Ví dụ, nguyên tắc xét xử công bằng ở Đức được sử dụng như một bảo đảm nền tảng đối với quyền của người bị buộc tội. Theo đó, người bị buộc tội ở Đức được trang bị những bảo đảm tối thiểu sau: quyền được yêu cầu giám định với sự tham gia của NBC do anh ta lựa chọn; quyền được có NBC miễn phí trong trường hợp nghèo khó đối với mọi cáo buộc về các tội nghiêm trọng; quyền không chấp nhận những chứng cứ được thu thập do bức cung, nhục hình; quyền được thông báo kết quả điều tra được trình bày trong quá trình xét xử.[64] Tương tự, việc phát triển phiên tòa hình sự ở Mỹ cũng được đặc biệt quan tâm[65]. Một phiên tòa công bằng là nơi các bằng chứng tranh tụng phải được trình bày trước một tòa án công minh để giải quyết những vấn đề đã xác định trong tố tụng. Quyền được xét xử công bằng được dùng để bảo vệ người bị buộc tội khỏi hành vi độc đoán của chính phủ và được xem là một bảo đảm chung có mối liên hệ mật thiết với nguyên tắc công bằng giữa các bên[66]. Bên cạnh đó, quyền được xét xử công bằng là tiêu chuẩn được viện dẫn nhiều nhất trong các bản án liên quan đến quyền có NBC của các Tòa án ở Mỹ[67]. Ví dụ, trong vụ án nổi tiếng của lịch sử tư pháp hình sự Mỹ[68], thẩm phán đã nhấn mạnh: “quyền của một bị cáo nghèo được có NBC là một quyền cốt yếu trong một phiên tòa công bằng…”[69].
Ở Việt Nam, pháp luật có những đặc thù riêng. Những biểu hiện về quyền được xét xử công bằng được ghi nhận trong BLTTHS dưới hình thức các nguyên tắc cơ bản, bao gồm: nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng tước tòa án (Điều 19); nguyên tắc xét xử công khai (Điều 18); nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm độc lập và tuân theo pháp luật (Điều 16); nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa (Điều 11); nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 9); nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 10).
Những chỉ dẫn trên cho thấy, quyền được xét xử công bằng có phạm vi điều chỉnh rất rộng. Nó bao trùm mọi quyền tố tụng của người bị buộc tội, trong đó có quyền có NBC. Điều này càng chứng tỏ, bảo đảm quyền có NBC là một nội dung quan trọng của bảo đảm quyền xét xử công bằng.Qua những phân tích ở trên, có thể nhận thấy giữa các khái niệm về tố tụng công bằng, quyền được xét xử công bằng và quyền có NBC có mối liên hệ rất mật thiết. Sự tuân thủ một trình tự tố tụng công bằng đòi hỏi việc xét xử phải được tiến hành công bằng và quyền có NBC của người bị buộc tội phải được bảo đảm. Mối liên hệ này đã phản án tầm quan trọng của việc cần thiết phải bảo đảm quyền có NBC của người bị buộc tội, đồng thời bảo đảm sự đối trọng cân bằng giữa hai chức năng tố tụng đối trọng (buộc tội và bào chữa) – một điều kiện tiên quyết của một thủ tục tố tụng công bằng. Thiết nghĩ, đây là tư duy nền tảng và cốt lõi cho việc tiếp tục sửa đổi bổ sung và hoàn thiện Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự về vấn đề này.
CHÚ THÍCH
* TS Luật học, Giảng viên Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1]Felix Rackow, The right to counsel: English and America Precedent, 1954, The William and Mary Quaterly,Third Series, Vol.11, No.1, (1954), <http://www.jstor.org/stable/1923146>.
[2] Xem: Charles Donahue, Jr., An historical argument for the right to counsel during police interrogation, Yale Law Journal, 1964, tr. 1020-21; Marvin Becker and George Heidelbaugh, The right to counsel in criminal cases – An inquiry into the history and practice in England and America, 28 Notre Dam L. 351 (1952-1953).
[3] Charles Donahue, chú thích 2, tr. 1027 – 28.
[4] Charles Donahue, Tlđd., tr. 1019.
[5] Xem: William Blackstone, Commentaries on the Laws of England, Vol. 4, 1769, tr. 355; Becker and Heidelbaugh, chú thích 2, tr. 355-56; Herman Cohen, A history of the bar (1929), Reprinted 2005, The Lawbook Exchange, Ltd., Clark, New Jersey, tr. 1 – 19.
[6] Xem: Chowdharay-Best, The History of right to counsel, Journal of Criminal Law, 40 (1976), tr. 275 – 80. Một phần trong quyển sách này mô tả trường hợp một hiệp sĩ bị buộc tội cưỡng hiếp và bị truy tố. Thẩm phán thông báo với người bị buộc tội rằng: “anh cần phải biết rằng, Nhà vua là một bên chính thức của vụ án này, vì vậy anh không thể có quyền có người bào chữa để chống lại nhà vua bởi vì Người đã truy tố anh”. Sau đó, thẩm phán nhấn mạnh rằng: “nếu chúng tôi cho anh có người bào chữa chống lại pháp luật, và bồi thẩm đoàn quyết định về phía anh thì chúng tôi sẽ bị mang tiếng là thiên vị anh; và vì vậy chúng tôi không dám làm vậy và anh cũng không được mong muốn điều đó.”
[7] Xem: John H. Langbein, The Origins of the Adversary Trial, Oxford, 2003; Harry R. Dammer, Erika Fairchild, Comparative Criminal Justice Systems, Thomson Wasdworth, 2006; Ronald Banaszak, Fair Trial Right of the Accused, GreenWood Press, 2002.
[8] Hệ thống tranh tụng là các thủ tục tố tụng ở các nước Thông luật để tìm kiếm sự thật trong quá trình xét xử mà ở đó công tố viên và người bào chữa tranh tụng với nhau, trong khi thẩm phán bảo đảm sự công bằng và tuân thủ luật đấu. Anh và Mỹ là các nước điển hình áp dụng mô hình này. Khác với mô hình tranh tụng là mô hình thẩm vấn, xuất hiện từ cuối thế kỷ 16 ở Tây Ban Nha và các nước theo Thiên chúa giáo khác. Khác với hệ thống tranh tụng, cách thức tìm sự thật khách quan ở đây có thể được dựa trên sự tra tấn hoặc các hình thức bạo lực khác và thẩm phán đóng vai trò quan trọng trong việc xem xét chứng cứ. Pháp và Đức là các nước điển hình theo hệ thống này. Xem Harry R. Dammer, Erika Fairchild, chú thích 7.
[9] Mỗi đồng tiền xu của Vương quốc Anh có giá 6 đồng; vẫn không thay đổi từ 1970.
[10] Bulstrode Whiteloke, Cobbett’s parliamentary history, 1343, cited in Chowdharay-Best, chú thích 6, tr. 275-80.
[11] John H. Langbein, chú thích 7.
[12] Năm 1836, Quốc hội đã thông qua một đạo luật cho phép người bị truy tố về tội đại hình được bào chữa thông qua luật sư bào chữa. Đạo luật này có tên gọi là Đạo luật về tội đại hình 1836 (1836 Felony Act). Xem Charles Donahue, chú thích 2, tr. 1027-1028; Chowdharay-Best, chú thích 6, tr. 279; Laurie Fulton, The right to counsel clause of the sixth amendment, 26 Am. Crim. L. Rev. 1599 (1989), tr. 1600.
[13] John H. Langbein, chú thích 7.
[14] Là phiên tòa có sự tham gia đầy đủ của các bên (bên buộc tội, bên bào chữa), thẩm phán sẽ đóng vai trò là trọng tài điều khiển và định hướng hoạt động tranh tụng giữa các bên và đưa ra phán quyết một cách công bằng. Xem John H. Langbein, Tlđd.,
[15] L. H. Baker, An Introduce to English Legal History 134, 2d Ed., (1979); Luther M. Swygert, Should Indigent Civil litigants in the Federal Courts have a Right to Appointed Counsel, 39 Washington and Lee Law Review 1267 (1982).
[16] Luther M Swygert, chú thích 15.
[17] Tlđd.,
[18] Harry R. Dammer, Erika Fairchild, chú thích 7, tr. 80 – 90.
[19] John H. Langbein, chú thích 7.
[20] Felix Rackow, chú thích 1.
[21] John H. Langbein, chú thích 7.
[22] Esmein, History of Continental Criminal Procedure, (Vol. 5 of Continental Legal History Series, 1913, tr. 196. Trích dẫn bởi Francis J. Morrissey, Escobedo’s European Ancestors, ABA Journal, 8/1966, Vol. 52, tr. 723 – 24.
[23] Harry R. Dammer, Erika Fairchild, chú thích 7, tr. 142-43.
[24] Francis J. Morrissey, chú thích 22.
[25] Tlđd.
[26] Tlđd.
[27] Tlđd.
[28] Tlđd.
[29] Tlđd.
[30] Craig M. Bradley, Criminal procedure – A worldwide Study, Carolina Academic Press, 2007, tr. 233 – 37.
[31] Stephan Trechsel, Human Rights in criminal proceedings, Oxford, 2005, tr. 244.
[32] Patrick Robinson, The Right to a Fair Trial in International Law, with Specific Reference to the Work of the ICTY, Berkeley Journal of International Law (BJIL), Vol.3, Fall 2009, <http://bjil.typepad.com/publicist/2010/01/the-right-to-a-fair-trial-in-international-law-with-specific-reference-to-the-work-of-the-icty.html#_ednref8>.
[33] Ngày nay, những nguyên tắc của Đạo luật có thể được tìm thấy trong các văn bản pháp lý quy định vể các quyền tố tụng cơ bản, ví dụ : quyền được xét xử, quyền được tự bào chữa, quyền được xét xử bởi một phiên tòa độc lập là công bằng.
[34] Magna Carta là văn bản ghi nhận quyền chính trị và pháp lý của người dân Anh, đồng thời cũng là văn bản đầu tiên giới hạn quyền lực của vua Anh.
[35] Richard Clayton, Hugh Tomlinson, Fair Trial Rights, Oxford University Press, 2006, tr. 26.
[36] Tlđd.,
[37] Ronald Banaszak, chú thích 7.
[38] Herbert Packer, The Limit of the Criminal Sanction, Stanford University Press, 1968, tr. 158-159.
[39] Herbert Packer, Tlđd., tr. 163-164.
[40] Norman Dorsen, Michel Rosenfeld, Andra Sajo, Susanne Baer, Comparative Constitutionalism – Cases and Materials, Thomson West, 2003, tr. 1050.
[41] Khía cạnh hình thức của một phiên tòa tranh tụng được đề cập ở nhiều bản án của Tòa án châu Âu về quyền con người. Xem: Norman Dorsen, Michel Rosenfeld, Andra Sajo, Susanne Baer, chú thích 40, tr. 1051; Malgorzata Wasek-Wiaderek, The principle of “equality arms” in criminal procedure under Article 6 of the European Convention on Human rights and its functions in criminal justice of selected European Countries- A comparative view, Leuven University Press, 2000, tr. 11.
[42] Salvatore Zappalà, Human Rights in International Criminal Proceedings, Oxford, 2005, tr. 3.
[43] Stefan Trechsel, chú thích 31, tr. 83.
[44] Richard Clayton, Hugh Tomlinson, chú thích 35, tr. 26.
[45] Danny J. Boggs, The Right to a Fair Trial, U.Chi. Legal F.1, 4 (1998). Trích dẫn bởi Norman Dorsen, Michel Rosenfeld, Andras Sajo, Susanne Baer, chú thích 40, tr. 1050.
[46] Stefan Trechsel, chú thích 31, tr. 49.
[47] Tlđd.
[48] Tlđd.
[49] M. Cherif Bassiouni, Human Rights in the Context of Criminal Justice: Identifying International Procedure Protection and Equivalent Protection in National Constitutions, 3 Duke J. Comtrang&Int’l. L.235 (1993), tr. 267-68.
[50] Tlđd.
[51] Tlđd.
[52] Salvatore Zappalà, chú thích 42, tr. 96 – 112.
[53] Tlđd.
[54] Tlđd.
[55] Salvatore Zappalà, chú thích 42, tr. 96 – 112.
[56] Malgorzata Wasek-Wiaderek, chú thích 41, tr. 12.
[57] Tlđd.
[58] E. Muller, Der Ger Grundsazt der Waffengleichheit in Strafverfahren, NJW 1976, No.24, tr. 1064. Trích dẫn bởi Malgorzata and Wasek-Wiaderek, chú thích 41, tr. 49.
[59] Malgorzata and Wasek-Wiaderek, Tlđd.
[60] Tlđd.,
[61] Nhận định khung số 13, đoạn 5 (13/4/1989).
[62] Báo cáo thường niên của Tòa án liên Mỹ (8/10/ 1990), OAS/ser.L/V/III.23, doc. 12, rev.1991, tr. 44, đoạn 24.
[63] Phán quyết của Ủy ban Châu Âu về quyền con người trong vụ xét xử Ofrer và Hopfinger, số 524/59 và 617/59, 12/ 1960, đoạn 680 và 696.
[64] Những quyền này được chỉ ra trong các Quyết định của Tòa án hiến pháp liên bang (BVerf GG) và Tòa án tối cao (BGH). Trích dẫn bởi Ed Cape, Zaza Namoradze, Roger Smith, Taru Sponken, Effective Criminal Defence in Europe, Antwerp-Oxford-Porland, Intersentia 2010, ISBN 978-94-000-0093-3, tr. 280-95.
[65] Christopher J. M. Safferling, Towards An International Criminal Procedure, Oxford University Press, 2007, tr. 14.
[66] Xem Ronald Banaszak, chú thích 7.
[67] Xem thêm chi tiết tại Chương 4.
[68] Gideon v. Wainwright, 372 U.S. 335, 344 (1963).
[69] Trong vụ án này, người bị buộc tội không có tiền tài trợ, không có người bào chữa và yêu cầu tòa án chỉ định người bào chữa cho mình. Nhưng tòa án từ chối với lý do pháp luật bang chỉ cho phép chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội là người nghèo trong những vụ án tử hình. Người bị buộc tội buộc phải tự bào chữa và anh ta bị kết án phạt tù.
Tác giả: Lương Thị Mỹ Quỳnh* – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 06/2013 (79)/2013 – 2013, Trang 22-33
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời