Pháp luật hình sự Việt Nam với Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn
Xem thêm bài viết về “Chống tra tấn”
- Vấn đề cấm tra tấn và việc hoàn thiện pháp luật thi hành án phạt tù – ThS. Nguyễn Quang Vũ & ThS. Lê Thị Anh Nga
- Nghĩa vụ hợp tác dẫn độ, tương trợ tư pháp hình sự và quyền tài phán phổ quát của quốc gia theo Công ước chống tra tấn năm 1984 – TS. Ngô Hữu Phước
- Thực hiện nghĩa vụ của quốc gia trong việc nội luật hóa các quy định của Công ước chống tra tấn trong lĩnh vực tố tụng hình sự – PGS.TS. Trần Văn Độ
- Nội luật hóa quy định của Công ước về chống tra tấn liên quan đến tài phán trong Bộ luật Hình sự Việt Nam – TS. Vũ Thị Thúy
- Nội luật hóa các quy định của Công ước quốc tế về chống tra tấn đối với hoạt động hỏi cung bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Lê Thị Thùy Dương
TÓM TẮT
Bài viết đánh giá mức độ đáp ứng của pháp luật hình sự Việt Nam đối với yêu cầu tội phạm hóa các hành vi tra tấn của Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và khái quát tình hình hành vi tra tấn ở Việt Nam hiện nay. Trong đó, tác giả khẳng định: các quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) chưa bao quát hết các dạng hành vi tra tấn (theo Công ước) đang xảy ra tương đối đa dạng ở Việt Nam cũng như chưa phản ánh đầy đủ tính nguy hiểm của các hành vi này đối với quyền con người. Từ kết quả này, bài viết đề xuất phương án bổ sung, hoàn thiện các điều luật chống cũng như phòng ngừa hành vi tra tấn để bảo vệ hiệu quả hơn con người và quyền con người.
Ngày 07 /11 /2013, Chính phủ Việt Nam đã ký Công ước của Liên hợp quốc về Chống tra tấn và trừng phạt hoặc đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo hoặc làm mất phẩm giá khác (gọi tắt là Công ước Chống tra tấn). Trong kỳ họp thứ 8 (khai mạc ngày 20 /10 /2014), Quốc hội khoá XIII sẽ xem xét phê chuẩn Công ước này. Để chuẩn bị cho việc thực hiện Công ước Chống tra tấn, chúng ta cần có sự đánh giá mức độ tương thích giữa các quy định của pháp luật Việt Nam, trong đó có quy định pháp luật hình sự với các quy định của Công ước Chống tra tấn để có cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung các quy định cần thiết trong hệ thống pháp luật.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả giới hạn đánh giá các quy định về tội danh liên quan đến hành vi tra tấn trong BLHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng các quy định này trong sự đối chiếu với các yêu cầu của Công ước Chống tra tấn đối với pháp luật hình sự của các quốc gia thành viên để trên cơ sở đó đề xuất hướng hoàn thiện các quy định về các tội danh liên quan đến hành vi tra tấn của pháp luật hình sự Việt Nam.[1]
1. Trách nhiệm hình sự của hành vi tra tấn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Trong BLHS Việt Nam hiện nay không có điều luật cũng như tội danh riêng biệt cho hành vi tra tấn mà chỉ có một số điều luật chung liên quan đến hành vi tra tấn. Theo các điều luật này, Việt Nam có thể truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi tra tấn về các tội danh khác nhau đã được quy định. Tuy nhiên, do khái niệm tra tấn trong Công ước được hiểu theo nghĩa tương đối rộng nên các điều luật có liên quan trong BLHS Việt Nam chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của Công ước về việc truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi tra tấn. Giữa các quy định của Công ước và các quy định của BLHS Việt Nam không chỉ có sự khác nhau về phạm vi các hành vi được coi là hành vi tra tấn và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà còn có sự khác nhau về mục đích trực tiếp của việc quy định trách nhiệm hình sự các hành vi phạm tội này.
Theo Công ước, hành vi tra tấn cần phải được tội phạm hóa để các quốc gia thành viên có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự và qua đó phòng ngừa loại hành vi này bao gồm không chỉ tra tấn về thể chất mà cả tra tấn về tâm lý. Trong đó, tra tấn về thể chất được hiểu là hành vi cố ý gây đau đớn về thể xác cho nạn nhân; còn tra tấn về tâm lý được hiểu là hành vi tác động trực tiếp đến tâm lý của nạn nhân (không tác động đến thể xác) bằng những thủ đoạn đe dọa khác nhau, làm cho họ có thể phải khiếp sợ, khuất phục. Chủ thể thực hiện hành vi tra tấn theo Công ước phải là người thuộc cơ quan công quyền hoặc người bất kỳ được người này tạo cơ hội hoặc chấp thuận.[2]
Theo BLHS Việt Nam, hành vi tra tấn có đặc điểm được xác định trên đây có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh đã được quy định tại Điều 298 – Tội dùng nhục hình hoặc tại Điều 299 – Tội bức cung.[3] Cụ thể:
– Tội dùng nhục hình (Điều 298) được xác định là hành vi dùng nhục hình trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Trong đó, hành vi dùng nhục hình được hiểu là “hành vi tra tấn, đánh đập người bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc bị giam giữ hoặc là hành vi khác có tính chất gây đau đớn về thể xác, gây tổn hại về sức khoẻ cho họ…”.[4] “Chủ thể của tội phạm này là cán bộ, điều tra viên làm công tác điều tra, cán bộ, chiến sỹ công an, quân đội làm công tác quản lý ở nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam, kiểm sát viên, thẩm phán”[5] .
Đối chiếu hành vi này với hành vi tra tấn được mô tả tại Điều 1 của Công ước có thể khẳng định: Điều 298 BLHS Việt Nam có thể được sử dụng là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi tra tấn đã được xác định tại Điều 1 của Công ước. Tuy nhiên, phạm vi truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 298 BLHS chỉ giới hạn ở các hành vi gây đau đớn về thể xác và hành vi này phải xảy ra trong hoạt động tư pháp. Đó là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Do vậy, Điều 298 BLHS không thể là cơ sở pháp lý cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự các hành vi tra tấn tâm lý cũng như các hành vi tra tấn xảy ra ngoài hoạt động tư pháp. Trong đó, hoạt động tư pháp được bắt đầu từ hoạt động điều tra và hoạt động này “chỉ được tính từ sau khi khởi tố… Như vậy, tội dùng nhục hình chỉ xảy ra khi và chỉ khi Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can…”[6] Các hành vi tra tấn xảy ra trước đó không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội dùng nhục hình theo Điều 298 BLHS. Trong khi, thực tiễn pháp lý thời gian gần đây cho thấy, nhiều vụ tra tấn gây hậu quả nghiêm trọng đã xảy ra trong giai đoạn trước khi có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can.[7] Điều 298 BLHS quy định một tội danh trong chương Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nên việc giới hạn phạm vi hoạt động mà hành vi tra tấn xảy ra như vậy là hợp lý.
Theo Điều 298, người bị xét xử về tội dung nhục hình phải chịu hình phạt tù từ sáu tháng đến ba năm trong trường hợp bình thường; trong trường hợp tăng nặng, hình phạt có thể là hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm hoặc từ năm năm đến mười hai năm. Ngoài ra, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ có liên quan từ một năm đến năm năm.[8]
– Tội bức cung (Điều 299) được xác định là hành vi dùng thủ đoạn trái pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật gây hậu quả nghiêm trọng.Trong đó, thủ đoạn trái pháp luật được hiểu là “thủ đoạn đe dọa, khủng bố, uy hiếp tinh thần người bị thẩm vấn một cách thô bạo như dọa không khai sẽ bị tra tấn…”[9]
Đối chiếu hành vi này với hành vi tra tấn được mô tả tại Điều 1 của Công ước có thể khẳng định: Điều 299 BLHS Việt Nam có thể được sử dụng là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi tra tấn tâm lý đã được xác định tại Điều 1 của Công ước nhưng hành vi đó phải xảy ra trong hoạt động tư pháp và phải dẫn đến việc khai sai, gây hậu quả nghiêm trọng. Như vậy, Điều 299 BLHS không thể là cơ sở pháp lý cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự các hành vi tra tấn tâm lý xảy ra ngoài hoạt động tư pháp cũng như các hành vi tra tấn tâm lý không có mục đích buộc người bị thẩm vấn phải khai sai.
Theo Điều 299, người bị xét xử về tội bức cung phải chịu hình phạt tù từ sáu tháng đến ba năm trong trường hợp bình thường; trong trường hợp tăng nặng, hình phạt có thể là hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm hoặc từ năm năm đến mười hai năm. Ngoài ra, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ có liên quan từ một năm đến năm năm.
Từ các phân tích trên có thể có những đánh giá sau về các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam trong mối tương quan với Công ước của Liên hợp quốc về Chống tra tấn:
– Mục đích trực tiếp của việc quy định các Điều 298 và 299 là nhằm bảo vệ sự vận hành bình thường của hoạt động tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án) vì đây là hai tội danh thuộc chương Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Trong khi mục đích của việc truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi tra tấn theo Công ước là nhằm bảo vệ quyền con người. Theo đó, việc xác định và đánh giá mức độ nghiệm trọng của hành vi tra tấn đều dựa trên trên cơ sở đầu tiên, quan trọng nhất là mức độ xâm phạm đến con người, đến thể xác và tinh thần của họ. Các Điều 298 và 299 đều không thể hiện điều này. Ngoài dấu hiệu gắn với hoạt động tư pháp và dấu hiệu khai sai sự thật (Điều 299), các điều luật đều chỉ thể hiện dấu hiệu chung chung về hậu quả (hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng), không có dấu hiệu nào phản ánh trực tiếp mức độ xâm phạm quyền con người bởi hành vi tra tấn.
– Do mục đích trực tiếp của việc quy định như vậy nên các tội danh, nội dung mô tả tội phạm và việc quy định hình phạt tại các Điều 298 và 299 chưa phản ánh được đối tượng chống là hành vi tra tấn và đối tượng bảo vệ là con người và quyền con người;
– Cũng do mục đích trực tiếp của việc quy định như vậy nên các điều 298 và 299 của BLHS Việt Nam chưa bao quát hết các hành vi tra tấn mà Công ước đã dự liệu có thể xảy ra và phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn nhiều dạng hành vi tra tấn theo Công ước không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các điều luật này.[10] Nhận định này hoàn toàn phù hợp với nhận xét của nhiều tác giả khác. Ví dụ: GS.TSKH. Đào Trí Úc và ThS. Vũ Công Giao đã nhận xét: “… mặc dù Bộ luật Hình sự đã có hai tội danh là tội bức cung và tội dùng nhục hình, nhưng các tội này rõ ràng chưa bao trùm hết nội hàm của hành vi tra tấn theo định nghĩa rất rộng nêu trong Công ước Chống tra tấn của Liên hợp quốc.”[11]
Từ các đánh giá trên có thể kết luận các quy định của BLHS Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được các yêu cầu của Công ước. Cụ thể:
– Các điều luật quy định về hành vi tra tấn chưa bao quát hết các hành vi tra tấn theo định nghĩa về tra tấn của Công ước.
– Các điều luật quy định về hành vi tra tấn chưa thể hiện được tính nguy hiểm của hành vi tra tấn đối với con người và quyền con người qua các dấu hiệu định tội cũng như các dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng.
– Các điều luật quy định về hành vi tra tấn chưa được xếp đúng vị trí trong BLHS.
Từ đó, đòi hỏi cần phải hoàn thiện các quy định về hành vi tra tấn để đảm bảo các quy định phản ánh đúng tính nguy hiểm và đầy đủ các loại hành vi tra tấn cũng như để đảm bảo các khung hình phạt phù hợp với tính nguy hiểm của các trường hợp phạm tội tra tấn.
2. Tình hình các tội phạm có liên quan với hành vi tra tấn và thực tiễn đấu tranh chống các hành vi phạm tội này tại Việt Nam
Các báo cáo gần đây của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao gửi Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đều khẳng định, “… hiện tượng bức cung, dùng nhục hình vẫn xảy ra.”[12] “Riêng tội dùng nhục hình có xu hướng gia tăng.”[13] Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã khẳng định: “Khi tiến hành hoạt động điều tra, vẫn còn hiện tượng điều tra viên bức cung, dùng nhục hình, có trường hợp dẫn đến hậu quả chết người”.[14]
Hiện tượng dùng nhục hình, bức cung cũng đã được các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh qua một số vụ án cụ thể. Qua đó, xã hội cũng phần nào cảm nhận được thực trạng sai phạm trong hoạt động của cơ quan công quyền liên quan đến quyền con người. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê chính thức thì số vụ án về hai tội danh này được khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử không nhiều. Trong thời gian gần đây, kể từ năm 2010, “Cơ quan điều tra VKSNDTC đã thụ lý điều tra 13 vụ/39 bị can về tội dùng nhục hình, không khởi tố vụ nào về tội bức cung. Đối tượng phạm tội đều trong ngành Công an, chủ yếu phát sinh trong hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, có vụ gây hậu quả nghiêm trọng (03 vụ dùng nhục hình gây chết người).”[15]
Trong quá trình xét xử Tội dùng nhục hình và Tội bức cung, các tòa án đã gặp một số vướng mắc cũng như phát hiện một số điểm chưa hợp lý trong quy định về hai tội danh này. Các vướng mắc và các điểm chưa hợp lý đã được Tòa án nhân dân tối cao thể hiện phần nào trong Báo cáo số 38/BC-TA ngày 08/ 8/ 2014 gửi Ủy ban Tư pháp của Quốc hội. Theo đó có thể tóm tắt một số nhận định sau:
– Dấu hiệu “trong hoạt động điều tra”đang được hiểu không thống nhất. Thực tiễn có thể hiểu hoạt động điều tra là thuộc giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự và do vậy, hoạt động này chỉ bắt đầu sau khi có quyết định khởi tố vụ án. Trái lại, thực tiễn cũng có thể hiểu hoạt động điều tra trong quy định của BLHS có thể bao gồm cả hoạt động trước khi có quyết định khởi tố vụ án. Đến nay vẫn chưa có ý kiến chính thức của cơ quan có thẩm quyền về vấn đề này.
– Dấu hiệu “hậu quả nghiêm trọng”, “hậu quả rất nghiêm trọng” và “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” là các dấu hiệu định tính, khó có thể có sự thống nhất trong cách hiểu khi áp dụng. Theo đó có thể có các câu hỏi được đặt ra: Hậu quả thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân cũng như hậu quả chết người có thể thuộc các hậu quả này hay không? Khi nào xử thêm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác? v.v..
– Các khung hình phạt tăng nặng đều được xây dựng với một tình tiết (dấu hiệu) duy nhất là hậu quả ở các mức độ nghiêm trọng khác nhau không phản ánh đầy đủ với thực tế, hạn chế việc phân hoá cũng như cá thể hoá trách nhiệm hình sự.
– Dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” được quy định là dấu hiệu định tội của tội bức cung là dấu hiệu khó xác định và không cần thiết vì hành vi ép buộc làm người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật đã thực sự xâm phạm hoạt động tư pháp mà không cần hậu quả tiếp theo là gì.
3. Hoàn thiện cơ sở pháp lý trong chống và phòng ngừa các hành vi tra tấn tại Việt Nam
Điều 2 Công ước Chống tra tấn yêu cầu các quốc gia thành viên phải ngăn chặn hành vi tra tấn bằng mọi biện pháp, trong đó có biện pháp về lập pháp. Theo đó, mỗi quốc gia đều cần phải xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ việc ngăn chặn hành vi tra tấn.
Ngăn chặn các hành vi tra tấn đòi hỏi đồng thời cả hoạt động chống và phòng ngừa[16] . Hai hoạt động này tuy có nội dung riêng nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chống hành vi tra tấn có thể được coi là một biện pháp phòng ngừa đặc biệt và ngược lại, phòng ngừa hành vi tra tấn cũng được coi là biện pháp tạo điều kiện cho chống tội phạm về tra tấn.[17] Hai hoạt động này không thể tách rời nhau. Do vậy, việc hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động chống tội phạm nói chung cũng như tội phạm về tra tấn nói riêng cần phải được thực hiện đồng thời với việc hoàn thiện cơ sở pháp lý của hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung cũng như tội phạm về tra tấn nói riêng.
Do vậy, trong phạm vi bài viết này, khi đề xuất phương án hoàn thiện pháp luật hình sự phục vụ hoạt động chống tội phạm về tra tấn, tác giả đặt việc đề xuất này trong sự thống nhất với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ chống và phòng ngừa tội phạm về tra tấn nói chung.
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về chống tra tấn
Điều 4 Công ước yêu cầu: “Mỗi quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng mọi hành vi tra tấn đều cấu thành tội phạm theo luật hình sự của nước mình.”. Theo đó, các quốc gia cần rà soát các quy định của pháp luật hình sự để xây dựng mới hoặc hoàn thiện các quy định chống tội phạm tra tấn phù hợp với yêu cầu cũng như quan niệm về hành vi tra tấn của Công ước.
Pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay tuy đã có hai điều luật về hành vi tra tấn nhưng 2 điều luật này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của Công ước như đã trình bày ở phần trên. Việc hoàn thiện pháp luật hình sự đảm bảo có đủ cơ sở pháp lý cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự các hành vi tra tấn theo xác định của Công ước là hoàn toàn cần thiết.
Vấn đề được đặt ra ở đây là cần hoàn thiện như thế nào? Sửa đổi hai điều luật hiện có hay phải bổ sung điều luật mới với tội danh mới? Tội danh mới được quy định ở vị trí nào trong BLHS hay được quy trong luật riêng biệt (khi cho phép mở rộng nguồn quy định tội phạm)? Tội danh mới có quan hệ như thế nào với hai tội danh đang có? …Đây là những câu hỏi quan trọng nhất được đặt ra cần có câu trả lời để có thể hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu chống tội phạm về tra tấn của Công ước.
Trước hết,về câu hỏi thứ nhất: khả năng không cần bổ sung điều luật mà chỉ cần sửa đổi hai điều luật hiện có chỉ có thể được chấp nhận nếu việc sửa đổi có thể khắc phục được hạn chế hiện nay, đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của Công ước về hình sự hóa các hành vi tra tấn. Hai điều luật hiện nay đều thuộc chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Do vậy, việc sửa đổi hai điều luật này không thể mở rộng được phạm vi điều chỉnh của hai điều luật này ra ngoài hoạt động tư pháp. Trong khi hành vi tra tấn có thể nằm ngoài hoạt động tư pháp. Hơn nữa, việc sửa đổi cũng không thể làm thay đổi mục đích trước hết của việc quy định hai điều luật này cũng như các điều luật khác trong cùng chương là chống “những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án…”(Điều 292 BLHS). Trong khi mục đích của việc hình sự hóa các hành vi tra tấn theo Công ước là chống hành vi xâm phạm con người và quyền con người. Theo đó, cần có điều luật về tra tấn với mục đích chống một loại hành vi xâm phạm nghiêm trọng quyền con người, như Kofi Annan, Tổng thư ký Liên hợp quốc năm 2001 đã khẳng định: “Tra tấn là sự vi phạm tồi tệ đến nhân phẩm con người. Nó làm mất tính người đối với cả nạn nhân và người tra tấn… Tự do, không bị tra tấn là một quyền cơ bản của con người, một quyền phải được bảo vệ trong mọi hoàn cảnh.”[18]
Như vậy, để đáp ứng yêu cầu của Công ước không thể chỉ dừng lại ở việc sửa đổi các điều luật hiện có trong BLHS mà “cần quy định thêm tội tra tấn…”[19] là một tội danh thuộc nhóm các tội xâm phạm đến con người và quyền con người. Khi xây dựng cấu thành tội phạm (CTTP) của tội tra tấn cần chú ý:
– Trong CTTP cơ bản, hành vi tra tấn phải được mô tả cụ thể, rõ ràng vừa đảm bảo đúng tinh thần của Công ước, phù hợp với thực tế Việt Nam và vừa đảm bảo dễ hiểu, tránh hiểu sai, hiểu không thống nhất.
– Trong các CTTP tăng nặng, cần ưu tiên xác định các dấu hiệu phản ánh mức độ nghiêm trọng của hành vi tra tấn đối với con người và quyền con người là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng. Trong đó có dấu hiệu về thủ đoạn, phương tiện tra tấn cũng như dấu hiệu về hậu quả (thể chất cũng như về tinh thần) gây ra cho nạn nhân. Để việc định tội danh đúng với bản chất của hành vi phạm tội cũng như hạn chế việc xử về nhiều tội cần xác định hậu quả chết người với lỗi vô ý và hậu quả tổn hại đến sức khỏe của nạn nhân với lỗi cố ý hoặc vô ý đều là các dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng. Như vậy, sẽ đảm bảo các trường hợp tra tấn đều bị xử về Tội tra tấn với các khung hình phạt khác nhau, trừ duy nhất trường hợp tra tấn đã cố ý gây hậu quả chết người mới bị xử về 2 tội – Tội giết người và Tội tra tấn.
Thứ hai,về câu hỏi mối quan hệ giữa tội danh mới – Tội tra tấn với 2 tội danh đã có – Tội dùng nhục hình (Điều 298 BLHS) và tội bức cung (Điều 299 BLHS), Khi tội danh tra tấn đã được quy định thì Tội dùng nhục hình không còn cần thiết vì các hành vi thỏa mãn dấu hiệu của tội dùng nhục hình đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tra tấn. Hơn nữa, tội dùng nhục hình như mô tả của Điều 298 khoản 1, xét cho cùng cũng không phải là hành vi làm thay đổi kết quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hay nói cách khác là không xâm phạm hoạt động tư pháp. Hành vi dùng nhục hình chỉ có thể làm thay đổi hoạt động tư pháp khi nạn nhân khai sai sự thật. Nhưng trường hợp này lại thuộc về Tội bức cung. Như vậy, việc hủy bỏ tội danh dùng nhục hình (Điều 298 BLHS) là có cơ sở.
Khác với tội dùng nhục hình (Điều 298 BLHS), tội bức cung (Điều 299 BLHS) cần được giữ lại và nội dung của nó cần được hoàn thiện vì 2 lý do sau:
– Hành vi “buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật”của tội bức cung là hành vi làm thay đổi kết quả điều tra, truy tố, xét xử không đúng với thực tế, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy, tội bức cung thực sự là một tội danh cần thiết thuộc chương Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.
– Trong mối quan hệ với tội tra tấn, tội bức cung vừa có dấu hiệu chung với tội này vừa có dấu hiệu riêng và dấu hiệu này phản ánh tính nguy hiểm đặc trưng của Tội bức cung so với Tội tra tấn. Tội bức cung vừa xâm hại con người, quyền con người như Tội tra tấn và đồng thời xâm phạm hoạt động tư pháp. Tội bức cung có thể được xem là trường hợp đặc biệt của tội tra tấn – tra tấn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và tra tấn nhằm buộc người bị tra tấn phải khai sai sự thật.
Để đảm bảo tính thống nhất và hệ thống giữa tội tra tấn và tội bức cung cần hoàn thiện Điều 299 BLHS theo các hướng sau:
– Điều 299 BLHS đang sử dụng hai dấu hiệu chưa rõ ràng khi mô tả tội phạm. Đó là dấu hiệu “thủ đoạn trái pháp luật”và dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng”. Do vậy, cần cụ thể hoá “thủ đoạn trái pháp luật” và bỏ dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng”.[20] Từ đó, có thể xác định hành vi phạm tội của tội bức cung là hành vi tra tấn của người tiến hành điều tra, truy tố, xét xử nhằm buộc người bị thẩm vấn khai sai sự thật. Trong đó, hành vi tra tấn được hiểu theo mô tả của tội tra tấn.
– Điều 299 BLHS cũng đang sử dụng hai dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng không rõ ràng là “hậu quả rất nghiêm trọng”và “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”.Ngoài hai dấu hiệu này không còn dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng nào khác. Yêu cầu được đặt ra ở đây là cần kết hợp các dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng có tính cụ thể đã được xác định ở tội tra tấn với các dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng có tính cụ thể phản ánh mức độ ảnh hưởng đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.[21]
Thứ ba,về câu hỏi tội tra tấn được bổ sung vào vị trí nào trong BLHS, Vấn đề này được đề cập trong mục tiếp theo của bài viết vì câu trả lời còn liên quan đến nội dung tiếp theo này.
3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về phòng và chống hành vi tra tấn
Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về chống hành vi tra tấn theo định hướng trình bày trên là nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu của Công ước đối với pháp luật hình sự của các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, để có thể chống hành vi tra tấn có hiệu quả đòi hỏi không chỉ hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự mà phải hoàn thiện đồng bộ cả pháp luật tố tụng hình sự cũng như pháp luật về phòng ngừa hành vi tra tấn nói chung. Do vậy, nội dung của Công ước bao gồm không chỉ yêu cầu đối với pháp luật hình sự mà còn yêu cầu đối với pháp luật tố tụng hình sự và các vấn đề khác có liên quan.
Để đảm bảo nội luật hóa tất cả các yêu cầu của Công ước một cách đồng bộ và thống nhất đòi hỏi phải rà soát và hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự phục vụ hoạt động chống tội tra tấn cũng như phải xây dựng bổ sung các văn bản pháp luật phục vụ việc phòng ngừa tội phạm này.
Với tính chất có tính tổng thể như vậy vấn đề nội luật hóa Công ước nên được thực hiện trước hết qua Luật Phòng, chống tra tấn, tương tự như các luật phòng, chống khác đã được ban hành như Luật phòng, chống mua bán người (2011); Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (2007); Luật Phòng, chống tham nhũng (2005); Luật Phòng chống khủng bố (2013); Luật Phòng, chống rửa tiền (2012)…
Như vậy, xây dựng và ban hành Luật Phòng, chống tra tấn cùng với việc hoàn thiện một cách đồng bộ và thống nhất các quy định liên quan đến chống cũng như phòng ngừa tra tấn của BLHS và BLTTHS là các công việc cần thiết thuộc trách nhiệm của Việt Nam sau khi phê chuẩn Công ước.
Nếu phương án ban hành Luật Phòng, chống tra tấn được chấp nhận và BLHS sửa đổi cho phép các luật cũng được quy định tội phạm thì Luật này nên có điều luật riêng về Tội tra tấn. Như vậy, trong BLHS sửa đổi chỉ còn tội danh bức cung đã được hoàn thiện theo định hướng trình bày trên.
Trong trường hợp chưa ban hành Luật Phòng, chống tra tấn cũng như trong trường hợp BLHS sửa đổi vẫn không cho phép các luật được quy định tội phạm thì Tội tra tấn sẽ được xếp vào chương Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người (theo tên gọi hiện nay).
Quy định về Tội tra tấn và Tội bức cung là cơ sở pháp lý cho việc chống các tội phạm này bằng biện pháp hình sự. Tuy nhiên, các quy định này chỉ thực sự có hiệu quả khi hệ thống các biện pháp phòng ngừa các hành vi phạm tội này được triển khai đồng thời. Do vậy, Công ước không chỉ yêu cầu các quốc gia tham gia phải chống các hành vi phạm tội tra tấn bằng biện pháp pháp luật hình sự mà còn yêu cầu phải thực hiện nhiều biện pháp ngăn ngừa khác nhau được thể hiện tại Điều 10 (các biện pháp tuyên truyền, giáo dục) và Điều 11 (các biện pháp về cơ chế và tổ chức). Phòng ngừa để hạn chế tội phạm nói chung cũng như tội phạm về tra tấn nói riêng mới là mục đích đích thực của nhà nước và xã hội; chống tội phạm nói chung cũng như tội phạm về tra tấn nói riêng cũng không nhằm ngoài mục đích này. Chống tội phạm chỉ là một biện pháp để phòng ngừa tội phạm. Do vậy, cùng với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự về chống hành vi tra tấn, cần phải hoàn thiện, bổ sung các quy định phòng ngừa loại hành vi này trong pháp luật tố tụng hình sự cũng như trong hệ thống pháp luật nói chung. Điều này, một lần nữa khẳng định cần phải có Luật Phòng, chống tra tấn làm cơ sở pháp lý nền tảng cho hoạt động phòng, chống tra tấn.
CHÚ THÍCH
*GS-TS. Luật học, Tổng Biên tập Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
[1] Các vấn đề khác thuộc pháp luật hình sự được Công ước Chống tra tấn đề cập (Điều 5 Công ước chống tra tấn) không thuộc phạm vi nghiên cứu của bài viết này.
[2] Xem Điều 1 Công ước của Liên hợp quốc về Chống tra tấn.
[3] Trong BLHS Việt Nam còn một số điều luật khác có nội dung liên quan đến hành vi tra tấn. Đó là Điều 320. Tội làm nhục hoặc dùng nhục hình đối với cấp dưới; Điều 340. Tội ngược đãi tù binh, hàng binh (thuộc chương Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân) và Điều 343. Tội phạm chiến tranh (thuộc chương Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh). Một trong các dạng hành vi phạm tội của các tội danh này là hành vi tra tấn. Tuy nhiên, bài viết chỉ giới hạn nghiên cứu hai điều luật chung mà không mở rộng sang các điều luật thuộc hai nhóm tội phạm tương đối đặc biệt của BLHS.
[4] Bộ Tư pháp, Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 1999, Nxb. Chính trị quốc gia, 2004, tr. 288.
Xt: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập 2, Nxb. CAND, 2010, tr. 417.
[5] Bộ Tư pháp, tlđd.tr. 288 và 289
Xt: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 2, Nxb. CAND, 2010, tr. 417
[6] Đinh Văn Quế, Dùng nhục hình hay giết người, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 3 năm 2014, tr. 40.
[7] Ví dụ vụ án xảy ra tại Công an thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên (xem trong bài Công an đánh nghi can trong giai đoạn “tiền tố tụng” xử về tội gì?, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 2 năm 2014, tr. 33 và các trang tiếp theo) hoặc vụ án xảy ra tại Công an xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội (xem trong bài: Nguyên phó công an xã lãnh án 17 năm tù vì tội giết người, truy cập ngày 05/10/2014).
[8] Người phạm tội còn có thể bị xử thêm về tội giết người, tội vô ý làm chết người hoặc cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ nếu hành vi dùng nhục hình đã gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ hoặc chết người tùy theo lỗi của chủ thể đối với hậu quả (xem thêm: Nghị quyết số 04 ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán TANDTC).
[9] Bộ Tư pháp, Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 1999, Nxb. Chính trị quốc gia, 2004, tr. 290.
Xem thêm: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 2, Nxb. CAND, 2010, tr. 419.
Theo tác giả, tra tấn cũng là một thủ đoạn trái pháp luật để buộc nạn nhân phải khai sai sự thật.
[10] Theo giải thích không chính thức trong một số tài liệu, các hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281) hoặc về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282). Tuy nhiên, 2 tội danh này là hai tội danh quá chung chung và cũng“quá xa”với hành vi tra tấn nên không phản ánh được tính chất phạm tội của hành vi tra tấn theo Công ước. Xem: Bộ Tư pháp, Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 1999, Nxb. Chính trị quốc gia, 2004, tr. 291.
[11] Đào trí Úc & Vũ Công Giao, Pháp luật về phòng chống tra tấn và những yêu cầu đặt ra trong quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam (bài đăng trên mục Thư viện trực tuyến – Website của Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân thuộc Khoa Luật ĐHQG Hà Nội) (ww.crights.org.vn).
[12] Báo cáo số 434/BC-BCA-C41 ngày 15 tháng 8 năm 2014 của Bộ Công an.
[13] Báo cáo số 38/BC-TA ngày 08 tháng 8 năm 2014 của Tòa án nhân dân tối cao.
[14] Báo cáo số 2144 /BC-UBTP13 ngày 18 tháng 9 năm 2014 của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội.
[15] Tlđd. Theo thống kê của Cục thống kê Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đến ngày 30 tháng 5 năm 2014 đã có 5 vụ với 13 bị cáo được xét xử; 8 vụ với 19 bị cáo đang được thụ lý.
[16] Công ước chủ yếu đề cập vấn đề chống các hành vi phạm tội tra tấn. Chính vì vậy mà Công ước có tên gọi tắt là Công ước của Liên hợp quốc về Chống tra tấn.
[17] Về mối quan hệ giữa chống và phòng ngừa tội phạm có thể xt:Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tội phạm học (chủ biên: PGS.TS. Lê Thị Sơn), Nxb. CAND, 2012, tr. 189.
[18] Trích theo Wolfgang Benedek (chủ biên), Tìm hiểu quyền con người, NXb. Tư pháp 2008, tr. 69.
(http://www.etc-graz.at/typo3/fileadmin/user_upload/ETC-Hauptseite/manual/versionen/vietnamese/Quyen_con_nguoi_-_P1.pdf., truy cập ngày 10/10/2014).
[19] Đào trí Úc & Vũ Công Giao, tlđd.
[20] Trong Báo cáo số 38/BC-TA ngày 08 tháng 8 năm 2014 gửi Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Chánh án TANDTC cũng đã đề xuất bỏ dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng”ở tội bức cung.
[21] Trong Báo cáo số 38/BC-TA ngày 08 tháng 8 năm 2014 gửi Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Chánh án TANDTC cũng đã đề xuất bổ sung một số dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng.
Tác giả: Nguyễn Ngọc Hòa* – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số Đặc san 03/2014 – 2014, Trang 17-25
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời