Mục lục
Phòng ngừa tội phạm dùng nhục hình ở Việt Nam góp phần thực hiện nghĩa vụ quốc gia khi gia nhập Công ước chống tra tấn 1984 của Liên hợp quốc
Xem thêm bài viết về “Công ước chống tra tấn 1984”
- Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Hình sự 1999 theo Công ước về Chống tra tấn 1984 – ThS. Nguyễn Thị Ánh Hồng
- Pháp luật hình sự Việt Nam với Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn 1984 – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Vấn đề cấm tra tấn và việc hoàn thiện pháp luật thi hành án phạt tù – ThS. Nguyễn Quang Vũ & ThS. Lê Thị Anh Nga
- Nghĩa vụ hợp tác dẫn độ, tương trợ tư pháp hình sự và quyền tài phán phổ quát của quốc gia theo Công ước chống tra tấn năm 1984 – TS. Ngô Hữu Phước
- Thực hiện nghĩa vụ của quốc gia trong việc nội luật hóa các quy định của Công ước chống tra tấn trong lĩnh vực tố tụng hình sự – PGS.TS. Trần Văn Độ
TÓM TẮT
Trong Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam 1999, tội dùng nhục hình rất gần và rất điển hình cho các tội phạm có hành vi tra tấn. Do đó, cần nghiên cứu đặc điểm của tội phạm này ở khía cạnh pháp lý và khía cạnh thực tế của nó để tìm kiếm biện pháp phòng ngừa góp phần thực thi nghĩa vụ quốc gia khi chính thức trở thành thành viên của CAT. Tội dùng nhục hình ở Việt Nam bị phát hiện, xử lý không nhiều nhưng để lại những hậu quả nhất định. Tội phạm này có nhiều nguyên nhân, bao gồm nguyên nhân thuộc ý thức, trình độ, nghiệp vụ, đạo đức của chủ thể thực hiện hành vi, nguyên nhân do thiếu sót của hệ thống kiểm tra, giám sát… Vì vậy cần tiến hành đồng bộ các giải pháp để phòng ngừa tội phạm này. Biện pháp phòng ngừa được đề nghị hướng đến loại bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội dùng nhục hình và trên tinh thần các khuyến nghị nêu ra tại các điều khoản của CAT. Đó là những biện pháp tuyên truyền, giáo dục, đào tạo đối với những cán bộ có liên quan đến dùng nhục hình và các cá nhân khác. Biện pháp hoàn thiện cơ chế giám sát để ngăn ngừa và phát hiện, xử lý tội dùng nhục hình; biện pháp bổ sung một số quy định của BLTTHS để ngăn ngừa tội dùng nhục hình.
Để kêu gọi cộng đồng quốc tế chống lại những hành động tra tấn, đối xử vô nhân đạo đối với con người, năm 1984 Liên hợp quốc cho ra đời Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người, gọi tắt là Công ước chống tra tấn của Liên hợp quốc (CAT)và có hiệu lực từ ngày 26/6/1987. Tháng 11/ 2013, Việt Nam đã ký công ước này. Nếu công ước được phê chuẩn, Việt Nam phải thực hiện các nghĩa vụ cam kết trong Công ước để xóa bỏ tra tấn và các hình thức đối xử vô nhân đạo, hạ nhục khác đối với con người đã được nêu ra. Phạm vi, mục đích bài viết này không nhằm đi sâu phân tích, so sánh các khía cạnh pháp lý của hành vi tra tấn trong Công ước và pháp luật Việt Nam để tìm kiếm giải pháp nội luật hóa những quy định đó trong luật quốc gia mà chủ yếu tìm kiếm một số giải pháp phòng ngừa hành vi tra tấn đã và đang diễn ra ở Việt Nam, từ đó góp phần thực thi nghĩa vụ quốc gia khi đã chính thức gia nhập Công ước. Các nghĩa vụ đó được quy định tại Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13 của Công ước. Rà soát các tội phạm được quy định trong BLHS năm 1999 của Việt Nam, chúng tôi nhận thấy có hai tội phạm có dấu hiệu pháp lý rất gần với hành vi tra tấn bị cấm trong Công ước của Liên hợp quốc[1] là Tội phạm dùng nhục hình (Điều 298) và Tội bức cung (Điều 299). Tuy nhiên, Tội bức cung trên thực tế không thấy được báo cáo xử lý trong nhiều năm liền, do đó bài viết chỉ tìm hiểu về tội phạm dùng nhục hình, nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa. Giả sử trong tương lai kết quả nội luật hóa quy định của Công ước vào luật quốc gia dẫn đến sự sửa đổi, bổ sung tội dùng nhục hình, tội bức cung hay dẫn đến thành lập một tội danh mới (tội tra tấn) thì những kết quả nghiên cứu này vẫn có giá trị để phòng ngừa những tội phạm tra tấn hoặc có liên quan đến tra tấn. Việc nghiên cứu các biện pháp phòng ngừa tội phạm dùng nhục hình tập trung ba vấn đề cần được làm sáng tỏ: 1/ Đặc điểm pháp lý của tội dùng nhục hình và tình hình tội phạm dùng nhục hình ở Việt Nam, 2/ Nguyên nhân của tội dùng nhục hình ở Việt Nam, 3/ Biện pháp phòng ngừa tội phạm dùng nhục hình ở Việt Nam – nhìn từ nguyên nhân của tội phạm và khuyến nghị của Công ước chống tra tấn của Liên hợp quốc.
Xem thêm bài viết về “Phòng ngừa”
- Thực trạng phòng ngừa các hành vi vi phạm về an toàn thực phẩm – ThS. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh
- Các tình huống phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy tại TP.HCM hiện nay và một số kiến nghị về phòng ngừa tội phạm – ThS. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh
- Hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy tại Việt Nam hiện nay – ThS. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh
1. Đặc điểm pháp lý của tội dùng nhục hình và tình hình tội phạm dùng nhục hình ở Việt Nam
Theo Hiến pháp và pháp luật hình sự Việt Nam, dùng nhục hình là hành vi bị cấm, là tội phạm[2] . Điều đó chứng tỏ Việt Nam có quan điểm rõ ràng và nghiêm khắc đối với hành vi dùng nhục hình. Theo BLHS năm 1999, tội dùng nhục hình thuộc nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, xảy ra trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Điều 298 BLHS năm 1999 không mô tả cụ thể hành vi dùng nhục hình nhưng có thể hiểu đó là hành vi tra tấn, đánh đập người bị điều tra, xét hỏi hoặc bị giam giữ, cũng như dùng những thủ đoạn tàn ác gây đau đớn về thể xác, gây tổn hại về sức khỏe (như bắt nhịn đói, nhịn khát, ăn cơm nhạt, không cho ngủ…)[3] .
Hành vi dùng nhục hình có lỗi cố ý với bất kỳ động cơ, mục đích gì (vì động cơ cá nhân hay mong muốn đạt được lời khai nhận tội…). Tội dùng nhục hình thuộc các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, nó xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Do đó, chỉ cấu thành hành vi dùng nhục hình khi chủ thể của tội phạm là Điều tra viên (và cán bộ có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu), Kiểm sát viên, Thẩm phán, cán bộ trại tạm giam, nhà tạm giữ và “cũng có thể là công an xã, phường trong khi hoạt động tư pháp (bắt giữ người khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền”[4] .
Tội phạm dùng nhục hình thường được thực hiện khi những chủ thể trên tiến hành các hoạt động lấy lời khai, hỏi cung, áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp thi hành án phạt tù. Người phạm tội dùng nhục hình có thể bị phạt tù với mức thấp nhất là 6 tháng (khoản 1) và cao nhất là 12 năm (khoản 3). Ngoài ra, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
Tội phạm dùng nhục hình hoàn thành khi hành vi dùng nhục hình được thực hiện mà không đòi hỏi hậu quả đã xảy ra. Hậu quả chỉ là tình tiết định khung tăng nặng (điều luật không giải thích rõ hậu quả gì, làm sai lệch kết quả hoạt động tư pháp hay làm tổn hại đến thể chất, tinh thần của nạn nhân).
Mặc dù còn một số dấu hiệu pháp lý chưa tương thích với hành vi chống tra tấn được mô tả tại Điều 1 của Công ước Chống tra tấn như: quan hệ xã hội bị tội phạm dùng nhục hình xâm hại (chỉ xảy ra trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án), phạm vi chủ thể thực hiện (chỉ những công chức có thẩm quyền thực thi các hoạt động tư pháp), hậu quả (hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc) nhưng có thể nói tội dùng nhục hình có tính điển hình nhất về hành động tra tấn bị cấm thực hiện. Việc nghiên cứu, tìm kiếm giải pháp phòng ngừa tội phạm này trên cơ sở nghiên cứu nguyên nhân của nó cũng như trên cơ sở khuyến nghị được nêu ra tại Công ước Chống tra tấn góp phần hạn chế, xóa bỏ tội phạm dùng nhục hình nói riêng và các hình thức tra tấn khác nói chung.
Trên thực tế, tội phạm dùng nhục hình bị phát hiện, xử lý ở Việt Nam không nhiều, bởi các nguyên nhân: hành vi dùng nhục hình được thực hiện trong không gian điều tra khép kín: giam, giữ, lấy lời khai, hỏi cung nên ít người biết, không có người làm chứng. Nạn nhân ở “thế yếu”, họ chính là người bị bắt, bị can, bị cáo hoặc phạm nhân bị cách ly, không có điều kiện tiếp xúc với bên ngoài nên không đủ chứng cứ, điều kiện chứng minh hoặc tố cáo mình bị dùng nhục hình. Những cán bộ dùng nhục hình thường bao che cho nhau…. Vụ án dùng nhục hình thường chỉ được “rõ” khi hậu quả để lại rất nghiêm trọng như nạn nhân chết, bị tổn hại nặng về sức khỏe hoặc bị oan. Tội phạm dùng nhục hình thường được thực hiện đối với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, phạm nhân của các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự nhân phẩm, các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (còn gọi là các tội phạm hình sự thường).
Công cụ, phương tiện, thủ đoạn dùng nhục hình là bất kỳ phương tiện nào, cách thức nào có khả năng gây đau đớn thể xác, tinh thần nạn nhân như đánh đập bằng tay chân, bằng dùi cui, cho người khác đánh, hỏi cung không cho nghỉ…
Tội phạm dùng nhục hình có thể xảy ra ở tất cả các giai đoạn tố tụng từ khi một người bị bắt giữ (chưa bị khởi tố) cho đến giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. BLHS quy định tội phạm dùng nhục hình xảy ra trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Điều đó không có nghĩa chỉ cấu thành tội dùng nhục hình khi hoạt động điều tra được bắt đầu tiến hành ở giai đoạn điều tra. Hoạt động điều tra khác với giai đoạn điều tra. Hoạt động điều tra có thể được tiến hành trước khi giai đoạn điều tra bắt đầu, do điều tra viên hay những cán bộ có thẩm quyền điều tra khác thực hiện nhằm mục đích thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm. Thực tế cho thấy, dùng nhục hình thường xảy ra ở giai đoạn khởi tố, điều tra và thi hành án, tức là từ khi bị bắt giữ cho đến khi có quyết định khởi tố vụ án và sau đó là xảy ra trong giai đoạn điều tra và giai đoạn thi hành án. Giai đoạn truy tố và xét xử hầu như không thấy báo cáo về tình trạng dùng nhục hình. Nạn nhân thường bị dùng nhục hình nhất là lúc mới bị bắt giữ, lấy lời khai sơ bộ để làm căn cứ khởi tố vụ án hay không. Từ đặc điểm này cho thấy chủ thể phạm tội dùng nhục hình phần lớn là cán bộ thuộc ngành công an quản lý và không chỉ là những người tiến hành tố tụng hay cán bộ quản giáo, nhân viên nhà tạm giữ, trại tạm giam mà có thể là người có thẩm quyền khác thực thi hoạt động tư pháp (bắt giữ, lấy lời khai, khám xét…).
Không gian bị dùng nhục hình phổ biến là nhà tạm giữ, tạm giam và trụ sở công an xã phường đối với trường hợp người bị dùng nhục hình mới bị bắt. Đây là những nơi mà hoạt động điều tra hoặc lấy lời khai ban đầu diễn ra. Trong giai đoạn thi hành án hình sự thì hành vi dùng nhục hình cũng xảy ra trong các trại giam, trại cải tạo khi phạm nhân có biểu hiện chống đối hoặc nghi ngờ vi phạm kỷ luật, nội quy của trại. Ngoài ra, hành vi dùng nhục hình còn được thực hiện trên đường áp giải bị can, người bị bắt từ nơi bị bắt hoặc trụ sở công an xã phường đến cơ quan điều tra và nhà tạm giữ, trại tạm giam, vì ở đó không có sự giám sát nào.
Tội phạm dùng nhục hình xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án, đồng thời gây ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật thực thi các hoạt động tư pháp. Nghiêm trọng hơn, tội phạm dùng nhục hình gây ra thiệt hại về thể chất, tinh thần nạn nhân, trong đó có những vụ án oan gây bức xúc dư luận.
Xem thêm bài viết về “Tội phạm”
- Bảo đảm quyền của nạn nhân của tội phạm tại Việt Nam: Trường hợp của nạn nhân buôn bán người – TS. Hoàng Thị Tuệ Phương
- Kiến nghị bổ sung quy định về nơi thực hiện tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1999 – TS. Vũ Thị Thúy
- Một số điểm mới về tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. Phạm Thái
- Kiến nghị bổ sung quy định về thời điểm thực hiện hành vi phạm tội trong Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. Vũ Thị Thúy
- Không yêu cầu và rút yêu cầu khởi tố đối với các tội phạm chỉ được khởi tố theo yêu cầu – TS. Mai Thanh Hiếu & ThS. Phạm Thái
2. Nguyên nhân của tội dùng nhục hình ở Việt Nam
Dùng nhục hình là một tội phạm cụ thể, do đó cần giải thích nguyên nhân trực tiếp của hành vi dùng nhục hình để tìm kiếm giải pháp phòng ngừa sát với tội phạm này. Có hai nhóm nguyên nhân, một là nguyên nhân từ đặc điểm người phạm tội, hai là nguyên nhân từ tình huống, hoàn cảnh khách quan dẫn đến phạm tội.
* Thứ nhất, nhóm nguyên nhân từ đặc điểm tâm lý – ý thức của người phạm tội
Nguyên nhân tâm lý trước hết là những người phạm tội dùng nhục hình đã xem nhẹ nguyên tắc suy đoán vô tội[5] khi thực hiện nhiệm vụ giải quyết vụ án. Điều tra viên và những cán bộ có nhiệm vụ lấy lời khai ban đầu đối với người bị bắt thường có tâm thế nghi ngờ người bị bắt, bị can có tội dựa trên những nguồn thông tin thu thập được nên đã làm mọi cách để có được lời nhận tội của họ. Thái độ thiếu tôn trọng (hoặc xa rời) nguyên tắc suy đoán vô tội dễ dẫn đến định kiến có tội và dùng nhục hình để lấy lời khai. Những chủ thể thực hiện chức năng buộc tội như điều tra viên, kiểm sát viên dễ mắc phải tâm lý định kiến có tội khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ tố tụng của mình. Tìm hiểu lịch sử tố tụng hình sự cho thấy tâm lý định kiến có tội thường gắn với mô hình tố tụng thẩm vấn từ thời trung cổ cho đến sau này với mục tiêu kiểm soát tội phạm, nâng cao tỷ lệ buộc tội thay vì suy đoán vô tội và đặt mục tiêu bảo vệ quyền người bị buộc tội như trong mô hình tố tụng hình sự tranh tụng. Theo một số tài liệu nghiên cứu lịch sử tố tụng hình sự, thời kỳ thay đổi từ Cộng hòa La Mã sang Đế chế La Mã (khoảng thế kỷ I – V), mô hình tố tụng xét hỏi (inquisitorial procedure) lần đầu tiên được hình thành[6] . Viên chức tư pháp thời trung cổ này thực hiện việc đặt câu hỏi nhân chứng, tra tấn người phạm tội và thực hiện các hoạt động điều tra khác[7] . Sự phát triển trở lại mô hình tố tụng xét hỏi từ thế kỷ XIII, cho phép dùng nhục hình (tra tấn – torture) để đạt được lời khai thú tội (phổ biến nhất vào thế kỷ XV, XVI nhà nước phong kiến ở phương Tây). Từ đó cũng có thể hiểu người bị buộc tội bị ép buộc phải khai báo bằng sự tra tấn. Ở thời kỳ đó, “phương pháp chứng minh đáng tin cậy nhất là việc làm cho thân thể đau đớn, là tra tấn; dưới những ngọn đòn tra tấn, bị cáo thú nhận một cách dễ dàng, sự thú nhận ấy được coi là “chứng cứ tốt nhất trên thế giới”, là “vua của các chứng cứ””[8] . Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, mặc dù gần đây đã có những cải cách quan trọng theo hướng tăng cường yếu tố tranh tụng nhưng xét về nguồn gốc hình thành[9] cho đến hiện tại nó “vẫn mang đậm đặc điểm của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn”[10] . Do đó, việc xem nhẹ nguyên tắc suy đoán vô tội đã ăn sâu trong tiềm thức của những người tiến hành tố tụng (kể cả thẩm phán), mặc dù nguyên tắc suy đoán vô tội đã được quy định trong Hiến pháp và BLTTHS từ hàng chục năm qua. Như vậy, có thể lý giải nguyên nhân dùng nhục hình từ việc xem nhẹ nguyên tắc suy đoán có tội của cán bộ làm nhiệm vụ điều tra.
Bên cạnh nguyên nhân xem nhẹ nguyên tắc suy đoán vô tội, Cán bộ điều tra, (trong giai đoạn khởi tố, điều tra), cán bộ quản giáo (trong giai đoạn thi hành án) có ý thức pháp luật, đạo đức kém, non chuyên môn nghiệp vụ, khí chất nóng nảycũng dẫn đến việc dùng nhục hình trong điều tra vụ án hình sự.
Ý thức pháp luật không chỉ được thể hiện ở trình độ hiểu biết pháp luật mà còn đòi hỏi ý thức tuân thủ pháp luật của chủ thể. Nhiều cán bộ điều tra, cán bộ quản giáo biết dùng nhục hình là có tội nhưng vẫn vi phạm. Rõ ràng không thể chấp nhận việc điều tra tội phạm hay giáo dục cải tạo người khác bằng cách phạm tội. Ý thức pháp luật của cá nhân có được từ việc học hỏi, được đào tạo. Tâm lý coi thường pháp luật đôi khi được “nuôi dưỡng, nuông chiều” do sự thiếu nghiêm minh trong xử lý vi phạm pháp luật. Tình trạng dùng nhục hình nhiều người trong ngành biết, ít bị phát hiện, xử lý nhẹ đã tạo ra tâm lý coi thường pháp luật của cán bộ điều tra, cán bộ quản giáo.
Tội phạm dùng nhục hình gây đau đớn thể xác, tinh thần cho nạn nhân nhưng người phạm tội vẫn thực hiện, điều đó chứng tỏ đạo đức của cán bộ điều tra, cán bộ quản giáo kém, coi thường giá trị nhân đạo – một loại giá trị xã hội đã trở thành chuẩn mực chung trên toàn thế giới.
Tình trạng non kém chuyên môn nghiệp vụ trong điều tra cũng dẫn đến tình trạng dùng nhục hình. BLTTHS quy định về các hoạt động điều tra, trong đó có hỏi cung, lấy lời khai. Tuy nhiên, nghiệp vụ để hỏi cung hay lấy lời khai như thế nào cho hiệu quả còn phụ thuộc vào trình độ chuyên môn nghiệp vụ của điều tra viên đã được đào tạo trong các trường Đại học cảnh sát, Đại học An ninh, Đại học Luật, như vận dụng chiến thuật hỏi cung trong khoa học điều tra hình sự, sử dụng phương pháp tác động tâm lý trong tâm lý học tư pháp… Việc hỏi cung hay lấy lời khai chỉ dựa vào nhục hình, dụ dỗ, bức cung chứng tỏ cán bộ điều tra non kém nghiệp vụ. Điều 30 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 quy định tiêu chuẩn chung của điều tra viên: “…có trình độ đại học an ninh, đại học cảnh sát hoặc đại học luật, có chứng chỉ nghiệp vụ điều tra, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của Pháp lệnh này, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được bổ nhiệm làm Điều tra viên”. Như vậy trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ điều tra kém trước hết thuộc về cá nhân của người đó. Đối với cán bộ quản giáo, việc giáo dục cải tạo phạm nhân không chỉ vào các quy định của luật thi hành án hình sự mà còn sử dụng nghiệp vụ sư phạm, sử dụng tác động tâm lý qua tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục để cảm hóa phạm nhân. Nếu cán bộ điều tra, cán bộ quản giáo không có hoặc không vận dụng đúng các kiến thức chuyên môn bổ trợ thì rất khó hoàn thành nhiệm vụ điều tra, cải tạo và rất dễ bị kích động tâm lý dẫn đến thực hiện hành vi dùng nhục hình. Nguyên nhân yếu chuyên môn nghiệp vụ cũng được các học giả nước ngoài chỉ ra và rất phổ biến: “Ở nhiều quốc gia, cảnh sát và nhân viên nhà tù thiếu kiến thức, nhận lương thấp, không được xã hội tôn trọng. Cùng thời gian đó, có sự kỳ vọng cao rằng cảnh sát nên giải quyết vụ án nhanh chóng, nếu có thể bằng cách dùng nhục hình từ người bị tình nghi phạm tội”[11] .
Đặc điểm khí chất của cán bộ điều tra, quản giáo cũng là nguyên nhân của tội phạm dùng nhục hình. Kiểu khí chất nóng nảy, thiếu kiềm chế, thiếu kiên nhẫn không thích hợp với các hoạt động điều tra, cải tạo dễ dẫn đến hành vi dùng nhục hình bởi đối tượng mà họ tiếp xúc hàng ngày là những người phạm tội, người có tiền án, có biểu hiện khiêu khích, chống đối, quanh co.
* Thứ hai, nhóm nguyên nhân, điều kiện khách quan của tội phạm dùng nhục hình
Trước hết, tội dùng nhục hình xảy ra do buông lỏng hoặc thiếu kiểm tra, giám sát cần thiết đối với hoạt động tư pháp.Việc giám sát hoạt động điều tra, xét xử, cải tạo trước hết thuộc về Viện kiểm sát, cơ quan có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Khi cần áp dụng biện pháp tạm giam hoặc bắt người nhưng thiếu căn cứ, đôi khi điều tra viên cũng phải dùng nhục hình với mục đích buộc bị can hoặc người bị bắt nhận tội qua đó thuyết phục Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt. Nếu Viện kiểm sát chậm trễ thực hiện hoạt động kiểm sát trong giai đoạn khởi tố hoặc buông lỏng kiểm sát trong giai đoạn điều tra thì điều kiện dùng nhục hình sẽ thuận lợi hơn. Thực tế, Viện kiểm sát vẫn thực hiện hoạt động kiểm sát hàng ngày và định kỳ đối với nhà tạm giữ, trại tạm giam, kiểm sát việc chấp hành pháp luật đối với các hoạt động tố tụng khác, tuy nhiên, tình trạng dùng nhục hình vẫn còn xảy ra. Bên cạnh đó, việc thiếu kiểm tra của lãnh đạo đơn vị đối với cán bộ thực hiện nhiệm vụ điều tra, cải tạo cũng tạo điều kiện cho việc thực hiện hành vi dùng nhục hình. Thực tế đã có vụ án, người đứng đầu cơ quan điều tra bị khởi tố vì thiếu trách nhiệm để tội phạm dùng nhục hình xảy ra gây hậu quả nghiêm trọng[12] . Việc kiểm tra, giám sát nhằm ngăn ngừa tình trạng dùng nhục hình cũng được thực hiện giữa các đơn vị liên quan của ngành công an, như giữa trại tạm giam, nhà tạm giữ với cơ quan điều tra. Quy chế về tạm giữ, tạm giam được ban hành tại Nghị định 89/1998/NĐ-CP có quy định lệnh trích xuất người bị tạm giữ, tạm giam để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đều có thông tin về tình trạng sức khỏe của người đó. Trước khi hỏi cung, điều tra viên cũng thường hỏi về tình trạng sức khỏe của bị can để thực hiện buổi hỏi cung. Nếu sức khỏe không đảm bảo phải báo ngay cho cán bộ quản lý nhà tạm giữ, trại tạm giam để xử lý. Khi nhận lại người từ điều tra viên sau khi hỏi cung, cán bộ nhà tạm giữ, trại tạm giam phải kiểm tra lại tình trạng sức khỏe của người được tiếp nhận. Nếu phát hiện thương tích hoặc những tổn hại sức khỏe bất thường, cần lập biên bản, xử lý để quy trách nhiệm. Do cán bộ quản lý nhà tạm giữ, trại tạm giam không làm tốt hoạt động kiểm tra, thậm chí bao che cho nhau nên đã xảy ra tình trạng dùng nhục hình trong quá trình điều tra vụ án.
Việc giám sát hoạt động hỏi cung, lấy lời khai còn được thực hiện bởi người bào chữa khi tham gia hoạt động bào chữa, người đại diện gia đình của bị can (dưới 16 tuổi) trong hoạt động hỏi cung. Nếu có sự hiện diện của người bào chữa, đại diện gia đình, Điều tra viên không thể dùng nhục hình được. Tuy nhiên, sự tham gia của người bào chữa vào hoạt động hỏi cung theo quy định của BLTTHS còn hạn chế do gặp phải những trở ngại về mặt pháp luật, tâm lý và cơ chế nên còn một tỷ lệ lớn vụ án mà người bào chữa chỉ tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra[13] . Hơn nữa không phải vụ án nào cũng có người bào chữa tham gia tố tụng[14] . Vì thế người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam bị dùng nhục hình trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung còn có nguyên nhân từ tình trạng thiếu sự tham gia của người bào chữa.
Việc giám sát từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác bên ngoài khuôn khổ hoạt động tố tụng còn hạn chế cũng là điều kiện xảy ra tội dùng nhục hình. Hiện Ủy ban Tư pháp của quốc hội và cơ quan đại diện ở địa phương cũng chỉ dừng lại ở các hoạt động chất vấn và yêu cầu báo cáo từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng đối với hoạt động tố tụng nói chung và tình hình dùng nhục hình nói riêng, vì thế hiệu quả phòng ngừa còn thấp. Người bị dùng nhục hình chưa có một cơ quan, tổ chức chuyên trách làm đầu mối hoặc hỗ trợ họ chứng minh tội phạm này và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết, bảo vệ lợi ích của họ.
Nguyên nhân, điều kiện khách quan của tội phạm dùng nhục hình còn xuất phát từ áp lực thời gian điều tra án, từ sự quá tải của hoạt động điều tra, từ thái độ khai báo, xử sự của chính nạn nhân. Thời hạn tạm giữ để phục vụ cho hoạt động lấy lời khai người bị bắt là tương đối ngắn (không quá 3 ngày, gia hạn không quá 2 lần, mỗi lần không quá 3 ngày), thời hạn điều tra cũng có thời hạn tùy loại tội phạm. Nếu hết thời hạn mà không chứng minh được tội phạm thì phải trả tự do hoặc đình chỉ điều tra. Vì vậy, điều tra viên có thể dùng nhục hình để đạt được lời nhận tội hoặc khai theo ý đồ của điều tra viên. Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, người tiến hành tố tụng rất coi trọng chứng cứ từ lời khai, do đó việc dùng nhục hình trong hoạt động hỏi cung, lấy lời khai rất dễ xảy ra. Bên cạnh đó, có người bị bắt, bị can có thái độ khiêu khích, có nhiều tiền án, tiền sự, xăm mình… làm cho điều tra viên, những người có khí chất nóng nảy, thiếu kiềm chế nên đã dùng nhục hình đối với nạn nhân.
Xem thêm bài viết về “Nhục hình”
3. Biện pháp phòng ngừa tội phạm dùng nhục hình ở Việt Nam – nhìn từ những nguyên nhân của tội phạm và khuyến nghị của Công nước Chống tra tấn của Liên hợp quốc
Việc phòng ngừa tội phạm dùng nhục hình cần được tiến hành đồng bộ sau khi nghiên cứu đặc điểm tình hình tội phạm cũng như nguyên nhân, điều kiện của tội phạm này. Việc phòng ngừa tội phạm dùng nhục hình nhằm thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp và các quy định về cấm bức cung, dùng nhục hình trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, đặc biệt nhằm góp phần đảm bảo thực thi nghĩa vụ quốc gia đối với Công ước Chống tra tấncủa Liên hợp quốc sau khi Việt Nam hoàn tất thủ tục gia nhập. Đây cũng là chủ trương nhận được sự đồng thuận của Đảng, Nhà nước và toàn dân ta trước yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người. Ngày 27/11/2013, Quốc hội 2013 cũng đã ban hành Nghị quyết 63/2013/QH13 “về Tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm”, trong đó có quy định “nghiêm cấm bức cung, dùng nhục hình” trong điều tra vụ án hình sự.
Các biện pháp cần được tiến hành để phòng ngừa tội phạm dùng nhục hình ở Việt Nam có thể là:
– Đào tạo cán bộ làm nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Biện pháp này được nêu ra tại Điều 10 Công ước Chống tra tấn. Nội dung của biện pháp là cần đào tạo, tuyên truyền, phổ biến cho cán bộ có nhận thức đúng về các quy định của pháp luật khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Nguyên tắc suy đoán vô tội phải được giáo dục, tuyên truyền một cách sâu sắc đối với các cán bộ thực thi các nhiệm vụ trên. Các trường đào tạo luật, an ninh, cảnh sát, học viện tư pháp và lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng phải chú ý tuyên truyền nguyên tắc này cho người học, cho cán bộ mới vào nghề nhằm thay đổi căn bản tâm lý, nhận thức của cán bộ đang coi nhẹ nguyên tắc này. Các cán bộ thực thi các hoạt động tư pháp cũng cần được giáo dục để nhận thức các quy định cấm dùng nhục hình, bức cung trong tố tụng hình sự và phải có thái độ triệt để tôn trọng. Để thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng, cán bộ trại tạm giam, nhà tạm giữ cần có sách hướng dẫn nghiệp vụ (cẩm nang) phát cho từng cán bộ, trong đó nêu rõ những điều cấm, điều nên làm và các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn hỗ trợ trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án để ngừa tình trạng dùng nhục hình xảy ra. Điều tra viên, kiểm sát viên phải giải thích một cách đầy đủ về quyền, nghĩa vụ và các quy định pháp luật khác có liên quan trước khi tiến hành tố tụng đối với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam.
Ngoài ra, đào tạo về quyền con người cũng được các chuyên gia nước ngoài cho là quan trọng đối với cảnh sát, nhân viên nhà tù sử dụng súng và các phương tiện kỷ thuật khác. “Một cuộc điều tra thẩm vấn của cảnh sát đối với một người bị tình nghi phạm tội phải hiểu rằng việc dùng nhục hình để có được lời thú tội nhanh chóng không chỉ là trái quy tắc chung, vi phạm nghiêm trọng quyền con người, mà còn là sự không chuyên nghiệp”[15] . Nếu điều tra viên, nhân viên trại tạm giam, nhà tạm giữ, cán bộ quản giáo và những người tiến hành tố tụng khác được trang bị đầy đủ kiến thức về quyền con người trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia thì sẽ góp phần hạn chế được tình hình phạm tội dùng nhục hình.
– Tuyên truyền một cách sâu rộng trong nhân dân, đoàn thể, tổ chức và các cơ quan nhà nước khác về quy định cấm dùng nhục hình nói riêng và các hình thức tra tấn khác nói chung trong lĩnh vực tư pháp hình sự.Có như vậy, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, phạm nhân mới tự tin sử dụng quyền của mình để chống lại hành vi dùng nhục hình, đồng thời phát huy vai trò giám sát của nhân dân, tổ chức, cơ quan nhà nước, các phương tiện truyền thông trong việc phát hiện, xử lý tội phạm dùng nhục hình.
– Tăng cường vai trò kiểm sát của Viện kiểm sát đối với hoạt động tư pháp nhằm ngăn ngừa tình trạng dùng nhục hình. Việc kiểm sát hoạt động tư pháp không dừng ở việc tiếp nhận báo cáo từ cơ quan điều tra, nhà tạm giữ, trại tạm giam mà nội dung kiểm sát cần cụ thể, thực chất hơn với việc kiểm tra hồ sơ, biên bản, đơn thư khiếu nại, tố cáo, việc ban hành lệnh cũng như thủ tục thực hiện các lệnh đó… Hoạt động kiểm sát phải có kế hoạch và sổ nhật ký theo dõi chặt chẽ. Để tạo điều kiện cho Viện kiểm sát thực hiện nhiệm vụ kiểm sát, cần có giải pháp kỹ thuật hỗ trợ như lắp đặt camera tại phòng hỏi cung và các buồng giam, giữ. Những phương tiện kỹ thuật này do nhà tạm giữ, trại tạm giam lắp đặt, bảo quản nhưng chỉ có Viện kiểm sát có quyền quản lý, khai thác dữ liệu ghi hình giúp Viện kiểm sát thực hiện nhiệm vụ kiểm sát. Biện pháp này góp phần phòng ngừa dùng nhục hình trong hoạt động điều tra và thi hành án hình sự. Ngoài ra, cần quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát cùng cấp trong trường hợp để tội phạm dùng nhục hình xảy ra.
– Nhà tạm giữ, trại tạm giam cần phải thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ nhiệm vụ kiểm tra tình hình sức khỏe của người được trích xuất theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Hiện nay có ý kiến cho rằng nên tách nhà tạm giữ, trại tạm giam ra khỏi cơ quan công an, giao cho Bộ Tư pháp quản lý để tăng cường khả năng độc lập và hiệu quả giám sát góp phần phòng ngừa bức cung, nhục hình. Tuy nhiên, cũng cần cân nhắc điều kiện về lực lượng, nghiệp vụ, phương tiện được trang bị cho mỗi ngành để đảm bảo các hoạt động quản lý, phòng ngừa, xử lý gây rối, bạo động trong nhà tạm giữ, trại tạm giam. Mặc dù cùng thuộc ngành công an quản lý nhưng cơ quan điều tra và nhà tạm giữ, trại tạm giam là những đơn vị độc lập có quyền giám sát và chịu trách nhiệm độc lập hoặc liên đới chịu trách nhiệm nếu để xảy ra tình trạng dùng nhục hình đối với người bị tạm giữ, tạm giam. Trước hết, nhân viên nhà tạm giữ, trại tạm giam thực hiện nghiêm túc quy chế tạm giữ, tạm giam trong việc kiểm tra tình trạng sức khỏe của người bị tạm giam, tạm giữ khi bàn giao và tiếp nhận lại họ từ phía Điều tra viên. Nếu phát hiện có hành vi dùng nhục hình phải xác định ngay trách nhiệm của bên vi phạm. Có như vậy mới giảm tình trạng dùng nhục hình. Các nhà hoạt động thực tiễn cũng khẳng định hiệu quả của giải pháp này: “Quy định của nhà tạm giam, tạm giữ rất nghiêm ngặt nên nếu cán bộ trại làm đúng nhiệm vụ thì điều tra viên không cách nào có thể dùng nhục hình tại nơi này được”[16] . Biện pháp này cũng nhằm thực thi các quy định tại Điều 11 Công ước Chống tra tấn của Liên hợp quốc.
– Mở rộng khả năng tham gia của người bào chữa vào hoạt động điều tra. Trước hết, BLTTHS cần bổ sung thêm tư cách tham gia tố tụng của người bị bắt và hoạt động bào chữa có thể được bắt đầu từ khi một người bị bắt, đồng thời cần bỏ hoặc đơn giản tối đa thủ tục tham gia bào chữa của người bào chữa. Việc bổ sung một tư cách tham gia tố tụng nữa là người bị bắt là tất yếu và có cơ sở bởi Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận người bị bắt và quyền bào chữa của người bị bắt (khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013). Thực tế, người bị bắt dễ bị dùng nhục hình để lấy lời khai ban đầu làm căn cứ để khởi tố vụ án, khởi tố bị can, phục vụ cho hoạt động điều tra sau này. Nếu không quy định tư cách tham gia tố tụng của người bị bắt thì nhiều hoạt động điều tra ban đầu khó được thực hiện một cách hợp pháp và người bào chữa chưa thể tham gia bào chữa, giám sát hoạt động lấy lời khai diễn ra trong vòng 24 giờ sau khi bị bắt hoặc cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Nếu muốn giữ lại quy định cấp giấy chứng nhận bào chữa thì cần phải đơn giản hóa thủ tục (hiện giới luật sư đang đề nghị bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa bởi nó làm chậm trễ khả năng tham gia tố tụng của người bào chữa). Ví dụ, chỉ cần người bào chữa trình thẻ luật sư hoặc văn bản cử người bào chữa và giấy đề nghị của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, người đại diện hợp pháp của những người này là cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét cấp hoặc từ chối cấp giấy chứng nhận bào chữa ngay mà không cần phải có thời hạn để xem xét (3 ngày hoặc 24 giờ) như hiện nay. Người yêu cầu cấp giấy chứng nhận bào chữa có nghĩa vụ cung cấp thông tin trung thực để chứng minh mình không thuộc diện bị từ chối cấp giấy chứng nhận bào chữa. Mặt khác, cũng cần nghiên cứu biện pháp phát triển đội ngũ luật sư đồng đều ở các địa phương, mở rộng phạm vi những người có quyền hành nghề bào chữa. Bên cạnh đó, BLTTHS cũng cần quy định trách nhiệm của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong việc thông báo cho người bào chữa về thời gian, địa điểm hỏi cung hoặc lấy lời khai. Có như vậy, người bào chữa tham gia hoạt động lấy lời khai hoặc hỏi cung sẽ thuận lợi hơn. Nếu đảm bảo tối đa quyền bào chữa sẽ giảm tội phạm dùng nhục hình, bức cung trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
– Bổ sung quyền im lặng của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáotrong BLTTHS. Quyền im lặng (right to remain silent), tiếng Việt cũng có thể hiểu là quyền từ chối khai báo, quyền bào chữa và quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội có quan hệ mật thiết với nhau. Quyền này sẽ không được thực hiện trọn vẹn nếu thiếu quyền kia. Quyền im lặng cùng với các quyền tư pháp còn lại giúp cho người tiến hành tố tụng ý thức được giới hạn của mình trong hoạt động tư pháp, tôn trọng lợi ích của người bị buộc tội. Khi cán bộ điều tra lấy lời khai bắt buộc phải giải thích quyền im lặng và các quyền khác của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can. Khi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can sử dụng quyền này, cán bộ điều tra buộc phải đảm bảo cho họ quyền mời người bào chữa tham gia tố tụng một cách nhanh chóng nếu muốn tiếp tục tiến hành hoạt động điều tra, thay vì dùng nhục hình một cách trái phép. Theo quy định của BLTTHS, điều tra viên chỉ giải thích cho người bị tạm giữ, bị can quyền trình bày lời khai, không giải thích nội dung Điều 10 của Bộ luật. Hơn nữa, quyền trình bày lời khai là đương nhiên trong hoạt động hỏi cung và lấy lời khai, còn quyền im lặng thực sự có ý nghĩa lịch sử, pháp lý cũng như thực tiễn tố tụng trước yêu cầu bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung và chống lại dùng nhục hình nói riêng. Biết rằng tội phạm dùng nhục hình, kể cả bức cung có nhiều nguyên nhân nhưng quyền im lặng là một trong những phương tiện để chống lại nó. Hiện nay, quyền im lặng của người bị buộc tội trở thành giá trị mang tính phổ quát trong hệ thống tư pháp toàn cầu, vấn đề ghi nhận nó một cách công khai trong BLTTHS Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian.
– Bổ sung độ dài thời gian hỏi cung, lấy lời khai tại Điều 131 BLTTHS. Biện pháp này cũng nhằm khắc phục điều kiện dùng nhục hình bằng thủ đoạn truy bức con người, đồng thời cũng góp phần thực thi Điều 11 của Công ước Chống tra tấn[17] . Với quy định này, sẽ không còn tình trạng các điều tra viên thay nhau hỏi cung, lấy lời khai kéo dài, bắt nạn nhân nhịn đói, nhịn khát (một dạng dùng nhục hình) như đã từng xảy ra ở một số vụ án. Ví dụ cần quy định thời gian mỗi lần hỏi cung hoặc lấy lời khai không quá 4 giờ, giữa hai lần hỏi có nghỉ ngơi (ít nhất một giờ) và tổng thời gian hỏi cung, lấy lời khai tối đa trong ngày không quá 8 giờ. Đây cũng là kinh nghiệm lập pháp của Liên bang Nga (Điều 187 BLTTHS Liên bang Nga), có ý nghĩa bảo vệ quyền con người, chống nhục hình, truy bức trong tố tụng hình sự.
– Bổ sung vào BLTTHS quy định về sự có mặt của Điều tra viên tại phiên tòa trong trường hợp cần thiết. Mục đích của quy định này không chỉ để kiểm tra lại tính hợp pháp của các hoạt động tố tụng do điều tra viên tiến hành ở giai đoạn điều tra có sự nghi ngờ mà còn là điều kiện để Hội đồng xét xử kiểm tra thông tin tố cáo bị dùng nhục hình và khai không đúng sự thật. Khi bị dùng nhục hình, bị can, bị cáo có thể thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo nhưng họ gặp phải những khó khăn khi bị giam, giữ, thiếu chứng cứ để chứng minh. Vì vậy, khi ra phiên tòa họ tiếp tục tố cáo với Hội đồng xét xử. Thực tế xét xử nhiều vụ án, có bị cáo tố cáo bị dùng nhục hình, xin khai lại với nội dung khác nhưng không đủ chứng cứ (thương tích) để chứng minh mình bị dùng nhục hình. Hội đồng xét xử cũng không có khả năng chứng minh lời tố cáo tại phiên tòa vì không có mặt của Điều tra viên để đối chất về lời tố cáo, nên thường không xem xét lời tố cáo. Với quy định bổ sung sự có mặt của Điều tra viên tại phiên tòa trong trường hợp cần thiết, Điều tra viên sẽ kiềm chế hành vi dùng nhục hình nếu không muốn bị tòa án triệu tập đến phiên tòa để giải thích lời tố cáo của bị cáo, thậm chí có nguy cơ bị đề nghị khởi tố vụ án dùng nhục hình mà điều tra viên đã thực hiện. Đề nghị bổ sung này cũng đáp ứng phần nào nghĩa vụ quốc gia thành viên tại Điều 13 của Công ước Chống tra tấn[18] .
– Cần thành lập tổ chức chuyên trách phòng chống tra tấn nói chung và dùng nhục hình nói riêng và khuyến khích thành lập các tổ chức phi chính phủ. Cơ quan chuyên trách có chức năng giám sát tình trạng dùng nhục hình, tư vấn và làm đầu mối tiếp nhận thông tin, đại diện làm việc với Ủy ban Chống tra tấn quốc tế (thành lập theo Điều 17 Công ước Chống tra tấn của Liên hợp quốc), với các cơ quan hữu quan trong nước nhằm ngăn ngừa, phát hiện, xử lý tội phạm dùng nhục hình. Cơ quan này có thể thuộc Ủy ban tư pháp của Quốc hội hoặc được thành lập độc lập và có đơn vị đại diện ở các địa phương. Với sự ra đời của một tổ chức chuyên trách phòng chống tra tấn ở phạm vi quốc gia như vậy, hoạt động phòng chống tội phạm dùng nhục hình sẽ có tính tổ chức cao và hiệu quả hơn. Ngoài ra, việc khuyến khích thành lập các tổ chức phi chính phủ để hỗ nạn nhân, tuyên truyền chống tra tấn, tư vấn cho các cơ quan nhà nước hữu quan cũng đem lại hiệu quả phòng ngừa tra tấn nói chung và tội phạm dùng nhục hình nói riêng.
– Biện pháp tăng cường khám phá, xử lý tội phạm dùng nhục hình.Như đã trình bày ở trên, tội dùng nhục hình có nhiều yếu tố làm cho nó dễ bị ẩn, do đócác cơ quan có thẩm quyền cần khẩn trương, nghiêm túc xử lý các nguồn tin báo, tố cáo, tố giác tội phạm để khởi tố, điều tra, xét xử tội phạm kịp thời, góp phần làm giảm tỷ lệ ẩn của tội phạm này. Mặt khác, việc xử lý tội phạm phải nghiêm khắc ở mức cần thiết, không bao che, nể nang dẫn đến xử lý nhẹ tạo ra tâm lý coi thường pháp luật. Nếu nâng cao tỷ lệ khám phá, điều tra và xử lý nghiêm thì không còn tâm lý coi thường pháp luật và tình hình tội phạm dùng nhục hình cũng sẽ giảm.
CHÚ THÍCH
* TS. Luật học, giảng viên Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Theo Điều 1 của Công ước chống tra tấn,thuật ngữ “tra tấn” có nghĩa là bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc khổ đau nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho một người, vì những mục đích như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe dọa hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ một lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi nỗi đau đớn và khổ đau đó do một công chức hay người nào khác hành động với tư cách chính thức gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận của một công chức. Khái niệm tra tấn không bao gồm những đau đớn hoặc đau khổ xuất phát từ, gắn liền với, hoặc có liên quan đến, các biện pháp trừng phạt hợp pháp.
[2] Điều 20 Hiến pháp năm 2013.
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”
Điều 298 BLHS năm 1999. Tội dùng nhục hình
“ 1. Người nào dùng nhục hình trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
- …”
[3] Nghị quyết số 04/HĐTP, 29/11/1986 của TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 1999.
[4] Chú dẫn 3.
[5] Pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam quy định về suy đoán vô tội như sau:
– Điều 11 Tuyên ngôn về Nhân quyền của Liên hợp quốc 1948 quy định: “Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ”.
– Công ước quốc tế về Quyền chính trị, dân sự của Liên hợp quốc, tại Điều 14 quy định: “Bị cáo về các tội hình sự có quyền được suy đoán là vô tội cho đến khi bị chứng minh là có tội theo luật”.
– Điều 9 BLTTHS năm 2003: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”.
– Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 1 Điều 31: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
[6] William F. McDonald, Criminal Prosecution Rationalization of Criminal Justice. Final Report. National Institute of Justice, US. Department of Justice, 1991, tr. 36.
[7] Xem Trần Đại Thắng, Mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn và đề xuất hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam,tài liệu hội thảo khoa học: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, VKSNDTC, 2009.
[8] Ia Vư – Sin – Xky, Lý luận về chứng cứ tư pháp trong pháp luật Xô Viết,Phòng tuyên truyền – Tập san – Tòa án nhân dân tối cao, 1967, (bản dịch tiếng Việt), tr. 157.
[9] Tố tụng hình sự Việt Nam có một lịch sử tố tụng thẩm vấn của nhà nước phong kiến kéo dài đến đầu thế kỷ XX và sau này xây dựng theo mô hình tố tụng của Liên Xô cũ, mà tố tụng của Liên Xô cũ cũng chịu ảnh hưởng từ mô hình tố tụng của các nước châu Âu lục địa vốn là nơi có truyền thống của mô hình tố tụng thẩm vấn.
[10] Đỗ Ngọc Quang, Phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, Tài liệu hội thảo khoa học Mô hình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Viện KSNDTC, tháng 12/2009.
[11] Manfred Nowak Elizabeth McArthur, The United Nations Convention Against Torture – A commentary, Oxford University Press, 2008. tr. 390.
[12] Đỗ Du, “Đề nghị truy tố phó trưởng công an TP Tuy Hòa“, truy cập ngày 24/10/2014.
[13] Báo cáo quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại Việt Nam, chương trình phát triển Liên hợp quốc, Hà Nội, năm 2010, có kết quả khảo sát vềtình hình tham gia hoạt động bào chữa khi cơ quan điều tra hỏi cung: mức độ tham gia thường xuyên 32% ý kiến trả lời có; 43% trả lời thỉnh thoảng, 5% trả lời không bao giờ. http://www.vn.undp.org/content/dam/vietnam/docs/Publications/31317_Vietnam_R2C_Report_23-05-2012-VN-final.pdf.
[14] Ngày 26/8, báo Pháp luật & Xã hội phối hợp cùng Hội Bảo trợ tư pháp cho người nghèo Việt Nam đã tổ chức tọa đàm về đề xuất bổ sung pháp luật để tăng cường sự tham gia trợ giúp pháp lý của bào chữa viên nhân dân. Con số thống kê cho biết, cả nước có 8.675 luật sư và gần 500 trợ giúp viên pháp lý, so sánh với dân số 90 triệu người thì tỷ lệ luật sư ở nước ta mới ở mức 1/14.000 dân, trong khi đó, tỷ lệ này ở Singapore là 1/1.000, ở Mỹ là 1/250. Bên cạnh số lượng luật sư hiện có so với số dân còn rất thấp, đội ngũ luật sư còn có sự phát triển mất cân đối lớn giữa khu vực thành thị-nông thôn, miền núi – đồng bằng và vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Số lượng luật sư tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội và tp. Hồ Chí Minh, còn tại các địa phương khác, số lượng luật sư không đủ để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý. Điều này dẫn đến tình trạng chỉ có 20% số vụ án hình sự là có người bào chữa cho bị cáo, còn lại 80% các vụ án hình sự, các bị cáo “trắng” người bào chữa. http://www.baomoi.com/80-vu-an-hinh-su-khong-co-nguoi-bao-chua-cho-bi-cao/58/14666441.epi, 26/08/2014.
[15] Manfred Nowak Elizabeth McArthur, chú dẫn 14, tr. 391.
[16] Thanh Tùng, “Ba giải pháp chống bức cung, nhục hình“,.ngày 28/3/2014.
[17] Nội dung của Điều 11: “Mỗi Quốc gia thành viên phải rà soát một cách có hệ thống các quy tắc, hướng dẫn, phương pháp và thực tiễn thẩm vấn cũng như các cơ chế giam giữ và đối xử với những người bị bắt, giam giữ, cầm tù dưới mọi hình thức, ở bất kỳ lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của mình, nhằm mục đích ngăn chặn mọi vụ việc tra tấn.”
[18] Nội dung của Điều 13: “Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng bất kỳ cá nhân nào cho rằng họ bị tra tấn trên lãnh thổ thuộc quyền tài phán của mình đều có quyền khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền của nước đó và được những cơ quan này xem xét một cách khẩn trương và khách quan…”.
Tác giả: TS. Lê Nguyên Thanh* – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số Đặc san 03/2014 – 2014, Trang 69-80
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời