Mặt chủ quan của tội phạm là gì? Phân tích các yếu tố cấu thành mặt chủ quan của tội phạm
Tác giả: Nguyễn Ngọc Hòa
1. Mặt chủ quan của tội phạm là gì?
Tội phạm là thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm, mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Với ý nghĩa là một mặt của hiện tượng thống nhất, mặt chủ quan của tội phạm không tồn tại độc lập mà luôn luôn gắn liền với mặt khách quan của tội phạm. Hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội luôn luôn gắn liền với các biểu hiện bên ngoài của tội phạm.
Hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm nhiều nội dung khác nhau. Những nội dung thuộc mặt chủ quan của tội phạm có ý nghĩa về mặt hình sự là những nội dung trả lời các câu hỏi:
– Lý trí và ý chí của người phạm tội đối với những biểu hiện bên ngoài (mặt khách quan) của tội phạm như thế nào?
– Điều gì thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội? (động cơ).
– Người phạm tội nhằm đạt được gì qua việc thực hiện hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội? (mục đích).
Với trả lời cho câu hỏi thứ nhất chúng ta xác định được chủ thể có lỗi cố ý hay vô ý.
Với trả lời cho câu hỏi thứ hai và thứ ba chúng ta xác định được động cơ phạm tội và mục đích phạm tội của chủ the trong trường hợp phạm tội cố ý. Đối với tội phạm vô ý, chủ thể không có động cơ phạm tội và không có mục đích phạm tội.
Như vậy, xét về mặt chủ quan, tất cả các tội phạm đều có biểu hiện có lỗi (cố ý hoặc vô ý). Đối với các tội cố ý, mặt chủ quan còn có động cơ phạm tội và mục đích phạm tội.
Cũng như hành vi khách quan thuộc yếu tố khách quan của tội phạm, dấu hiệu lỗi (cố ý hoặc vô ý) được xác định trong tất cả các cấu thành tội phạm. Lỗi là dấu hiệu không thể thiếu của các cấu thành tội phạm. Mục đích và động cơ phạm tội tuy cũng là biểu hiện thuộc mặt chủ quan của tội phạm nhưng không phải luôn luôn có ý nghĩa quyết định tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và do vậy cũng không phải luôn luôn là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác hoặc để phân biệt tội phạm với trường hợp chưa phải là tội phạm. Mục đích phạm tội và động cơ phạm tội chỉ được phản ánh trong một số cấu thành tội phạm (cơ bản) khi nó có tính đặc trưng, cần thiết cho việc phân biệt với tội phạm khác hoặc cho việc phân biệt với trường hợp chưa phải là tội phạm.
Ngoài ra, mục đích phạm tội, động cơ phạm tội còn có thể được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt ở một số cấu thành tội phạm.
Xem thêm bài viết về “Tội phạm“
- Chủ thể của tội phạm là gì? Các loại chủ thể đặc biệt trong tội phạm – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Mặt khách quan của tội phạm là gì? Phân tích các yếu tố cấu thành trong mặt khách quan của tội phạm? – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Đối tượng tác động của tội phạm là gì? Phân loại đối tượng tác động của tội phạm? – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Khách thể của tội phạm là gì? Phân loại khách thể của tội phạm? – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- [SO SÁNH] Phân biệt tội phạm và các vi phạm pháp luật khác – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
2. Các yếu tố cấu thành mặt chủ quan của tội phạm
2.1. Lỗi trong mặt chủ quan của tội phạm
2.1.1. Lỗi trong Luật hình sự là gì?
Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc có lỗi được coi là nguyên tắc cơ bản. Người phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam không phải chỉ vì người này có hành vi khách quan có tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội mà còn vì họ có lỗi trong việc thực hiện hành vi khách quan đó. Theo nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc “quy tội khách quan”, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ trên cơ sở hành vi khách quan có tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội mà không xét đến lỗi của người thực hiện hành vi đó. Việc thừa nhận nguyên tắc có lỗi trong luật hình sự Việt Nam là sự thừa nhận và tôn trọng tự do của con người. Đó là cơ sở đảm bảo cho trách nhiệm hình sự có khả năng khách quan thực hiện được mục đích: “.. không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới…” (Điều 31 Bộ luật Hình sự).
Người thực hiện hành vi có tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu họ lựa chọn hành vi đó khi có điều kiện lựa chọn xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Như vậy, lỗi trong luật hình sự được hiểu là quan hệ giữa cá nhân người phạm tội với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan những đòi hỏi của xã hội được thể hiện qua các đòi hỏi cụ thể của luật hình sự. Sự phủ định chủ quan này tồn tại trên cơ sở và trong sự thống nhất với sự phủ định khách quan là tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể được luật hình sự bảo vệ. Cũng như quan hệ giữa khách quan và chủ quan, sự phủ định khách quan có thể tồn tại độc lập không cần có sự phủ định chủ quan nhưng sự phủ định chủ quan chỉ tồn tại khi có sự phủ định khách quan. Điều đó có nghĩa là lỗi bao giờ cũng đi liền với hành vi có tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội và không thể nói đến lỗi khi không có hành vi cụ thể có tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội. Lỗi trong luật hình sự Việt Nam là lỗi cá nhân, lỗi của người cụ thể khi thực hiện hành vi cụ thể có tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội.
Sự phủ định chủ quan thể hiện ở sự lựa chọn xử sự khách quan có tính gây (hoặc đe dọa) thiệt hại cho xã hội.
Trong trường hợp có lỗi, chủ thể có nhiều khả năng xử sự – khả năng xử sự có tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội và khả năng xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Những khả năng này chủ thể đều có thể lựa chọn nhưng chủ thể đã lựa chọn và thực hiện xử sự có tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội. Như vậy, lỗi chỉ đặt ra cho những trường hợp trong đó có khả năng xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội và chủ thể đã không lựa chọn khả năng này.
Với ý nghĩa là nội dung của lỗi, quan hệ giữa cá nhân người phạm tội với xã hội luôn luôn được thể hiện và tồn tại là quan hệ tâm lý nhất định của chủ thể với hành vi gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội. Đó là mặt hình thức của lỗi. Căn cứ vào mặt hình thức này của lỗi có thể định nghĩa lỗi như sau:
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vì đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. (Đây là cách định nghĩa thường thấy trong các sách báo pháp lý từ trước đến nay)
Là mặt hình thức của lỗi, quan hệ tâm lý ở đây gồm yếu tố lý trí và yếu tố ý chí. Hai yếu tố này – một thể hiện năng lực nhận thức, một thể hiện năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở của sự nhận thức là những yếu tố tâm lý cần thiết của mọi hành vi của con người. Nếu xử sự có tính gây (hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi thì lý trí và ý chí phải có những đặc điểm nhất định phản ánh xử sự có tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội đã thực hiện là kết quả của sự lựa chọn của chủ thể, trong khi chủ thể có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Trong hoạt động tâm lí, ngoài lý trí và ý chí còn có yếu tố tình cảm. Khi thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội, người phạm tội có thể ở trong trạng thái tình cảm khác nhau (giận dữ, bực tức, lo sợ…) nhưng tình cảm không có ý nghĩa quyết định trong việc xác định nội dung và hình thức lỗi. Nó không phải là dấu hiệu trong cấu thành tội phạm.
Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lý của yếu tố lý trí và ý chí trong những trường hợp có lỗi, luật hình sự Việt Nam chia lỗi thành hai loại – cố ý và vô ý. Lỗi cố ý gồm hai hình thức là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý cũng gồm hai hình thức là vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả.
Lỗi là nội dung biểu hiện của mặt chủ quan được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Trong mỗi cấu thành tội phạm cơ bản, dấu hiệu lỗi được xác định (về nguyên tắc) chỉ có thể là một loại lỗi – hoặc là lỗi cố ý hoặc là lỗi vô ý.
Trong các tội phạm cố ý, lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc là cố ý gián tiếp (Ví dụ: Tội giết người – Điều 123 Bộ luật Hình sự) nhưng cũng có thể chỉ là cố ý trực tiếp (Ví dụ: Tội trộm cắp tài sản – Điều 173 Bộ luật Hình sự) hoặc chỉ có thể là cố ý gián tiếp (Ví dụ: Tội bức tử – Điều 130 Bộ luật Hình sự). (Thực tiễn xét xử hiện nay thừa nhận lỗi trong cấu thành tội phạm tội bức tử là lỗi cố ý gián tiếp hoặc vô ý. Nếu người bức tử khi thực hiện hành vi bức tử lại mong muốn hậu quả tự sát (cố ý trực tiếp) thì không còn là tội bức tử mà đã cấu thành tội giết người.)
Trong các tội phạm vô ý, dấu hiệu lỗi vô ý được xác định trong cấu thành tội phạm có thể là vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả.
2.1.2. Lỗi với vấn đề tự do và trách nhiệm
Lỗi là điều kiện để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự một người về hành vi có tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội của họ. Để có thể giải thích tại sao lại như vậy, cần phải đi từ câu hỏi:
Trên cơ sở nào mà xã hội có thể buộc con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ?
Con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình vì hành vi của con người tuy có tính tất yếu nhưng đồng thời có tính tự do. Tính tất yếu của hành vi con người thể hiện ở chỗ hành vi được hình thành không phải một cách ngẫu nhiên, tách rời những điều kiện xã hội mà được hình thành một cách có quy luật, là kết quả của sự tác động qua lại giữa những điều kiện xã hội và con người. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là xử sự cụ thể của cá nhân có tính tất yếu tuyệt đối, không thể tránh được. Mọi xử sự của con người tuy đều chịu sự chi phối của quy luật khách quan nhưng con người lại có khả năng nhận thức được quy luật và sử dụng quy luật thực hiện mục đích của mình. Đó là tự do của con người. Xử sự của con người có tính quy định trước nhưng đối với xử sự của mình con người vẫn có tự do vì con người có năng lực lựa chọn và thực hiện xử sự phù hợp với quy luật tự nhiên và xã hội đã nhận thức được. Xử sự của con người tuy chịu sự tác động của điều kiện kinh tế, xã hội nhưng không phải là kết quả trực tiếp của riêng điều kiện kinh tế, xã hội vì “mọi sự tác động của một hiện tượng lên một hiện tượng khác đều bị khúc xạ bởi các thuộc tỉnh bên trong của hiện tượng bị tác động”.
Các nguyên nhân bên ngoài tác động đến con người không phải một cách máy móc mà phải thông qua sự suy xét (lý trí) và sự quyết định (ý chí) của họ. Để thoả mãn nhu cầu trong đời sống mỗi người có thể có nhiều biện pháp giải quyết và việc lựa chọn biện pháp nào là kết quả của hoạt động lý trí và ý chí. Chính vì vậy, trong những điều kiện khách quan giống nhau, mỗi người có thể lựa chọn biện pháp xử sự khác nhau. Con người khi đã có quyền lựa chọn là có tự do.
Tự do ý chí là khả năng tâm lý của con người có thể tự mình lựa chọn và thực hiện biện pháp xử sự trong những điều kiện xã hội nhất định. Người đã lựa chọn biện pháp xử sự có tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội khi có thể xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội thì phải chịu trách nhiệm về sur lựa chọn của mình. Tự do là cơ sở để lên án người có hành vi có tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội.
Tự do là cơ sở của trách nhiệm và trách nhiệm chỉ đặt ra cho con người khi họ có tự do. Người xử sự trái với đòi hỏi của xã hội trong khi có tự do là người có lỗi. Trách nhiệm chỉ đặt ra cho người có lỗi.
2.2. Phân loại các loại lỗi
Bộ luật Hình sự năm 2015 chia lỗi thành 04 loại: Lỗi cố ý trực tiếp, lỗi cố ý gián tiếp, lỗi vô ý do quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả. Cụ thể:
2.2.1. Lỗi cố ý trực tiếp
Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi, “… nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra”. (Đoạn 1 Điều 10 Bộ luật Hình sự).
Phân tích định nghĩa này có thể rút ra những dấu hiệu sau của lỗi cố ý trực tiếp:
– Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình (được hiểu là tính gây (hoặc đe dọa gây) thiệt hại cho xã hội) và thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi đó.
Nhận thức rõ tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi là sự nhận thức trên cơ sở nhận thức những tình tiết khách quan tạo nên tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi. Những tình tiết đó có thể là mặt thực tế của hành vi, là đặc điểm của đối tượng tác động của tội phạm, là những điều kiện khách quan như công cụ, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội
Ở các tội có cấu thành tội phạm vật chất, hậu quả thiệt hại là dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm nên người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp không chỉ nhận thức được tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi của mình mà khi thực hiện hành vi cũng thấy trước được hậu quả thiệt hại của hành vi.
Thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi là nhận thức vượt trước, là dự kiến của người phạm tội về hậu quả đó. Người phạm tội có thể dự kiến hành vi tất nhiên sẽ gây ra hậu quả thiệt hại hoặc dự kiến hành vi có thể gây ra hậu quả thiệt hại.
Ở các tội có cấu thành tội phạm hình thức, hậu quả thiệt hại không phải là dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm nên vấn đề có thấy trước hay không thấy trước hậu quả thiệt hại không được đặt ra khi xem xét lý trí của người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.
Nếu hậu quả thiệt hại được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt trong cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt thì cũng đòi hỏi phải xác định người phạm tội thấy trước hậu quả thiệt hại để khẳng định người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp đối với hậu quả thiệt hại.
Nhận thức rõ tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi và thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi là hai nội dung của yếu tố lý trí có liên quan chặt chẽ với nhau. Thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi là kết quả và là sự cụ thể hoá sự nhận thức tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi. Trái lại, nhận thức rõ tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi là cơ sở cho việc thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi.
– Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu quả thiệt hại phát sinh.
Điều này có nghĩa hậu quả thiệt hại của hành vi mà người phạm tội thấy trước hoàn toàn phù hợp với mục đích – phù hợp với sự mong muốn của người đó. Ở đây, sở dĩ không đặt vấn đề mong muốn hay không mong muốn hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội vì khi đã nhận thức được tính chất của hành vi mà vẫn thực hiện thì đã có nghĩa chủ thể mong muốn thực hiện hành vi đó.
Ở các tội có cấu thành tội phạm vật chất, hậu quả thiệt hại được quy định là dấu hiệu của cấu thành tội phạm nên việc kiểm tra ý chí của người phạm tội đối với hậu quả thiệt hại đã thấy trước là cần thiết để có thể khẳng định có lỗi cố ý trực tiếp hay không.
Ở các tội có cấu thành tội phạm hình thức, hậu quả thiệt hại không được quy định là dấu hiệu của cấu thành tội phạm nên việc xác định ý chí đối với hậu quả thiệt hại không được đặt ra. Muốn xác định người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp chỉ cần xác định người đó nhận thức được tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi mà vẫn thực hiện hành vi đó.
Nếu hậu quả thiệt hại cho xã hội được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt trong cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc được xem xét là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt thì việc chứng minh lỗi cố ý trực tiếp đối với hậu quả thiệt hại cũng đòi hỏi phải xác định ý chí của người phạm tội đối với hậu quả thiệt hại.
2.2.2. Lỗi cố ý gián tiếp
Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi “… nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra”. (Đoạn 2 Điều 10 Bộ luật Hình sự).
So sánh lỗi cố ý trực tiếp với lỗi cố ý gián tiếp thấy rằng trong hai trường hợp có lỗi cố ý, lý trí của người có lỗi về cơ bản không có gì khác nhau. Sự khác nhau của hai loại lỗi này chủ yếu là ở yếu tố ý chí. Đó là “mong muốn…” hay “có ý thức để mặc…”.
Nếu trong trường hợp có lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội mong muốn hậu quả thiệt hại xảy ra thì trong trường hợp có lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không mong muốn mà chỉ có ý thức để mặc cho hậu quả thiệt hại xảy ra. Đối với người có lỗi cố ý gián tiếp, hậu quả thiệt hại xảy ra hay không xảy ra đều không có ý nghĩa, không xảy ra cũng được và nếu xảy ra cũng chấp nhận. Ví dụ: Do bực tức, A đã dùng dao đâm bừa vào B làm B chết. Khi đâm, A nhận thức được việc đâm của mình là nguy hiểm, có thể dẫn đến chết người. Nhưng do bực tức nên vẫn cứ đâm, muốn như thế nào cũng được. A không mong muốn giết B nhưng nếu B chết cũng chấp nhận.
Với sự khác nhau về yếu tố ý chí như vậy, buộc yếu tố lý trí của người phạm tội ở hai trường hợp có lỗi cố ý tuy về cơ bản là giống nhau, phải có điểm khác nhau. Ở trường hợp có lỗi cố ý trực tiếp, sự thấy trước hậu quả thiệt hại của người phạm tội có thể là thấy trước hậu quả đó tất nhiên phải xảy ra hoặc là có thể xảy ra. Nhưng ở trường hợp có lỗi cố ý gián tiếp, sự thấy trước hậu quả thiệt hại của người phạm tội chỉ có thể là thấy trước hậu quả đó có thể xảy ra. Không thể có trường hợp người phạm tội đã thấy trước hậu quả tất nhiên phải xảy ra mà lại có ý thức để mặc…”, không mong muốn hậu quả đó khi thực hiện hành vi. Thái độ có ý thức để mặc cho hậu quả thiệt hại xảy ra chỉ có thể xảy ra trong trường hợp thấy trước cả hai khả năng – khả năng hậu quả thiệt hại xảy ra và khả năng hậu quả thiệt hại không xảy ra.
Từ phân tích trên có thể rút ra những dấu hiệu của lỗi cố ý gián tiếp như sau:
– Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hành vi đó có thể gây ra hậu quả thiệt hại.
– Về ý chí: Người phạm tội không mong muốn hậu quả thiệt hại xảy ra. Hậu quả thiệt hại mà người phạm tội thấy trước không phù hợp với mục đích của họ. Người phạm tội thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội là nhằm mục đích khác. Để đạt được mục đích này, người phạm tội chấp nhận hậu quả thiệt hại do hành vi của mình có thể gây ra. Người phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc đối với hậu quả thiệt hại của hành vi của mình mà họ thấy trước.
Tóm lại, dấu hiệu quan trong nhất của lỗi cố ý gián tiếp là dấu hiệu “có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra”. Dấu hiệu này có nghĩa chủ thể chấp nhận hậu quả xảy ra”.
Trong Bộ luật Hình sự, lỗi cố ý được phân thành hai loại: Lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp như đã trình bày. Trong nghiên cứu, còn có thể phân loại lỗi cố ý theo các cách sau:
– Tuỳ thuộc vào thời điểm hình thành có thể phân biệt hai loại lỗi cố ý: Cố ý có dự mưu và cố ý đột xuất.
Cố ý có dự mưu là trường hợp người phạm tội đã có sự suy nghĩ, cân nhắc kỹ trước khi thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội.
Cố ý đột xuất là trường hợp người phạm tội vừa có ý định phạm tội đã thực hiện ngay ý định đó, chưa kịp có sự cân nhắc kĩ.
– Căn cứ vào mức độ cụ thể của sự hình dung về hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, có thể phân biệt hai loại lỗi cố ý: Cố ý xác định và cố ý không xác định.
Cố ý xác định là trường hợp người phạm tội hình dung được một cách rõ ràng và cụ thể hậu quả thiệt hại mà hành vi của họ sẽ gây ra. Ví dụ: Người phạm tội trộm cắp tài sản có ý định trộm cắp tài sản cụ thể và đã thực hiện ý định đó.
Cố ý không xác định là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hậu quả thiệt hại nhưng chưa hình dung được một cách cụ thể hậu quả đó. Ví dụ: Khi dùng gậy gây thương tích cho người khác, người phạm tội chưa hình dung được một cách cụ thể thương tích sẽ xảy ra có mức độ nặng nhẹ như thế nào.
2.2.3. Lỗi vô ý vì quá tự tin
Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi trong trường hợp “… Người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được” (Đoạn 1 Điều 11 Bộ luật Hình sự). Từ định nghĩa này có thể rút ra những dấu hiệu của trường hợp có lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin như sau:
– Về lý trí: Người phạm tội nhận thức được tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi của mình, thể hiện ở chỗ thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội (hậu quả thiệt hại) mà hành vi của mình có thể gây ra.
Xét ở điểm này, người có lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin và người có lỗi cố ý có sự giống nhau là đều thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi của mình. Tuy nhiên, sự giống nhau này chỉ có tính tương đối. Trong sự giống nhau này vẫn có điểm khác nhau. Cụ thể: Người phạm tội với lỗi vô ý vì quá tự tin thấy trước hậu quả thiệt hại có thể xảy ra nhưng đồng thời lại cho rằng hậu quả đó không xảy ra (hoặc có thể ngăn ngừa được). Như vậy, sự thấy trước hậu quả thiệt hại ở đây thực chất chỉ là sự cân nhắc đến khả năng hậu quả thiệt hại có thể xảy ra và kết quả người phạm tội đã loại trừ khả năng hậu quả thiệt hại xảy ra. Đối với người phạm tội với lỗi vô ý vì quá tự tin, khả năng hậu quả thiệt hại xảy ra và khả năng hậu quả thiệt hại không xảy ra đều là khả năng thực tế nhưng người phạm tội đã tin vào khả năng hậu quả thiệt hại không xảy ra.
Chính sự tin tưởng này thể hiện người phạm tội không nhận thức được một cách đầy đủ tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi.
– Về ý chí: Người phạm tội không mong muốn hành vi của mình gây ra hậu quả thiệt hại. Sự không mong muốn này có điểm khác so với sự không mong muốn ở trường hợp có lỗi cố ý gián tiếp. Nếu ở trường hợp có lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không mong muốn nhưng đã chấp nhận khả năng hậu quả thiệt hại xảy ra khi lựa chọn và thực hiện hành vi thì ở trường hợp có lỗi vô ý vì quá tự tin, sự không mong muốn hậu quả thiệt hại của người phạm tội gắn liền với việc người đó đã loại trừ khả năng hậu quả thiệt hại xảy ra. Người phạm tội với lỗi vô ý vì quá tự tin đã cân nhắc, tính toán và cho rằng hậu quả thiệt hại sẽ không xảy ra (hoặc có thể ngăn ngừa được). Sự cân nhắc, tính toán này có thể dựa trên căn cứ nhất định như tin tưởng vào sự khéo léo, sự hiểu biết, kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ kỹ thuật của mình hoặc tin vào những tình tiết khách quan bên ngoài khác. Ví dụ: Người lái xe tin rằng mình sẽ vượt qua đường sắt trước khi tàu đến; người đi săn tin rằng sẽ bắn trúng con thú, không để đạn lạc vào người… Sự tin tưởng này của người phạm tội tuy có căn cứ nhưng những căn cứ đó đều không chắc chắn. Người phạm tội đã không đánh giá đúng tình hình thực tế. Sự tin tưởng của họ là sự tin tưởng quá mức so với thực tế. Lỗi của người phạm tội trong trường hợp vô ý vì quá tự tin chính là ở chỗ đã quá tin tưởng đó. Người phạm tội với lỗi vô ý vì quá tự tin do không thận trọng khi đánh giá, lựa chọn xử sự nên đã gây ra hậu quả thiệt hại cho xã hội.
2.2.4. Lỗi vô ý vì cẩu thả
Lỗi vô ý vì cẩu thả là lỗi trong trường hợp “Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó” (đoạn 2 Điều 11 Bộ luật Hình sự).
Căn cứ vào định nghĩa có thể rút ra hai dấu hiệu của lỗi vô ý vì cẩu thả:
Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội (hậu quả thiệt hại) mà hành vi của mình đã gây ra.
Dấu hiệu thứ hai: Người phạm tội phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Dấu hiệu thứ nhất là dấu hiệu cho phép phân biệt trường hợp có lỗi vô ý vì cẩu thả với các trường hợp có lỗi khác. Dấu hiệu thứ hai là dấu hiệu cho phép phân biệt trường hợp có lỗi vô ý vì cẩu thả với trường hợp không có lỗi.
Về dấu hiệu thứ nhất
Ở ba trường hợp có lỗi đã nghiên cứu, người phạm tội đều thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả thiệt hại, tuy mức độ thấy trước có sự khác nhau. Trong trường hợp có lỗi vô ý vì cẩu thả, người phạm tội không thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi của mình. Việc người phạm tội không thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi của mình có thể xảy ra theo các khả năng sau:
Người phạm tội không nhận thức được mặt thực tế của hành vi của mình và như vậy cũng có nghĩa không nhận thức được khả năng gây hậu quả thiệt hại của hành vi của mình. Ví dụ: Y tá khi phát nhầm thuốc cho bệnh nhân (do vội vàng) đã không nhận thức được hành vi của mình là hành vi phát nhầm và do vậy cũng không nhận thức được hành vi của mình có khả năng gây ra hậu quả thiệt hại.
Người phạm tội tuy nhận thức được mặt thực tế của hành vi của mình nhưng lại hoàn toàn không nhận thức được khả năng gây hậu quả thiệt hại của hành vi của mình (hoàn toàn không nghĩ đến khả năng hậu quả xảy ra). Ví dụ: Người vứt que diêm cháy dở sau khi châm thuốc ngay chỗ bơm xăng có thể hoàn toàn không “kịp” nghĩ đến khả năng gây hoả hoạn.
Về dấu hiệu thứ hai
Người phạm tội trong trường hợp có lỗi vô ý vì cẩu thả có nghĩa vụ phải thấy và có đủ điều kiện để có thể thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi của mình. Điều này xuất phát từ trách nhiệm cụ thể của cá nhân và hoàn cảnh. Với trách nhiệm cụ thể của mình, người phạm tội có nghĩa vụ thấy trước hậu quả thiệt hại và điều kiện cụ thể không cản trở họ thấy trước hậu quả thiệt hại. Người phạm tội không thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi của mình chỉ vì sự cẩu thả, thiếu sự thận trọng cần thiết của chính họ. Lỗi của người phạm tội là ở chỗ đã cẩu thả, đã thiếu thận trọng khi xử sự.
Xã hội đòi hỏi mỗi người phải tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tập thể và của người khác. Mỗi người không những không được cố ý gây ra hậu quả thiệt hại cho xã hội mà trong xử sự của mình đòi hỏi phải có sự thận trọng cần thiết nhằm tránh gây ra những hậu quả thiệt hại đó. Đòi hỏi khách quan này của xã hội đã trở thành những quy tắc của đời sống, trong đó có những quy tắc đã được pháp luật hoá và có những quy tắc chưa được pháp luật hoá nhưng qua kinh nghiệm, mọi người đều biết và thừa nhận có nghĩa vụ phải thực hiện. Những quy tắc đó thuộc những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như quy tắc trong giao thông, quy tắc trong săn bắn, quy tắc phòng hoả, quy tắc an toàn lao động… Người phạm tội với lỗi vô ý vì cẩu thả là người về khách quan đã gây ra hậu quả thiệt hại do đã vi phạm quy tắc nhất định của cuộc sống chung xã hội. Về chủ quan, người phạm tội với lỗi vô ý vì cẩu thả có nghĩa vụ phải tuân thủ quy tắc mà họ đã vi phạm. Với trách nhiệm cụ thể của mình và hoàn cảnh khách quan, người phạm tội phải thấy hành vi không cẩn thận, không tuân thủ quy tắc đã được đặt ra sẽ gây ra hậu quả thiệt hại. Ví dụ: Với trách nhiệm là y tá phát thuốc cho bệnh nhân, người phạm tội phải thấy được việc phát thuốc không cẩn thận có thể dẫn đến phát nhầm và do vậy có thể gây ra hậu quả thiệt hại cho sức khỏe hoặc tính mạng của bệnh nhân sử dụng thuốc; với trách nhiệm là người dân sống trong cộng đồng, người phạm tội phải thấy được việc dùng lửa không cẩn thận trong khi đun nấu có thể dẫn đến hoả hoạn gây ra hậu quả thiệt hại cho mình và hàng xóm…
Tóm lại, dấu hiệu “phải thấy” ở lỗi vô ý vì cẩu thả có nghĩa là người phạm tội có nghĩa vụ phải tuân thủ quy tắc mà họ đã vi phạm. Nghĩa vụ đó phát sinh từ trách nhiệm cụ thể của người phạm tội. Do có nghĩa vụ đó mà họ buộc phải thấy được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả thiệt hại.
Người phạm tội với lỗi vô ý vì cẩu thả không những “phải thấy” mà còn “có thể thấy” trước hậu quả thiệt hại của hành vi của mình. “Có thể thấy” ở đây có nghĩa là người phạm tội có đủ điều kiện khách quan (hoàn cảnh cụ thể bên ngoài) cũng như điều kiện chủ quan (trình độ nhận thức, trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm…) để có thể thấy trước hành vi vi phạm của mình có thể gây ra hậu quả thiệt hại. Người phạm tội hoàn toàn có điều kiện tuân thủ quy tắc mà họ đã vi phạm. Ở ví dụ trên, y tá hoàn toàn có điều kiện để cẩn thận khi phát thuốc, không có gì cản trở việc phát thuốc đúng của họ hoặc tác động làm họ phát nhầm thuốc.
Khi xác định người phạm tội có lỗi vô ý vì cẩu thả cần chú ý, trong một số hoạt động có tính chất chuyên môn, sự hiểu biết về các quy tắc bảo đảm an toàn đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, học hỏi nhất định. Do vậy, việc xác định các đặc điểm chủ quan của người phạm tội về trình độ nghiệp vụ là điều kiện cần thiết để xác định người phạm tội có lỗi vô ý vì cẩu thả.
So sánh với lỗi cố ý, lỗi vô ý là sự phủ định chủ quan ít nghiêm trọng hơn.
Người phạm tội với lỗi vô ý đã lựa chọn và thực hiện hành vi vì không thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi hoặc thấy trước nhưng tin hậu quả đó không xảy ra và do vậy cũng không nhận thức được hành vi sẽ thực hiện là hành vi phạm tội. Họ không lựa chọn hành vi phạm tội như trường hợp có lỗi cố ý. Do tính chất như vậy nên những hành vi vô ý nói chung chỉ có tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khi đã gây ra hậu quả thiệt hại ở mức độ nhất định. Đó là lý do giải thích tại sao trong luật hình sự Việt Nam, những cấu thành tội phạm có dấu hiệu lỗi vô ý thường được xây dựng dưới dạng cấu thành tội phạm vật chất. Còn trường hợp cấu thành tội phạm hình thức có dấu hiệu lỗi vô ý chí có tính cá biệt. Ví dụ: cấu thành tội phạm tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước (khoản 1 Điều 338 Bộ luật Hình sự); cấu thành tội phạm tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự (khoản 1 Điều 406 Bộ luật Hình sự).
2.3. Trường hợp hỗn hợp lỗi
Trường hợp hỗn hợp lỗi là trường hợp trong cấu thành tội phạm có hai loại lỗi (cố ý và vô ý) được quy định đối với những dấu hiệu khách quan khác nhau.
Là biểu hiện của mặt chủ quan, lỗi luôn luôn là lỗi đối với tất cả những dấu hiệu khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm cơ bản. Do vậy, không thể có những loại lỗi khác nhau đối với những dấu hiệu khách quan khác nhau trong cùng cấu thành tội phạm cơ bản. Trường hợp tồn tại đồng thời hai loại lỗi (cố ý và vô ý) chỉ có thể xảy ra ở những cấu thành tội phạm tăng nặng của những tội phạm cố ý mà dấu hiệu tăng nặng là hậu quả thiệt hại nhất định và lỗi của người phạm tội đối với hậu quả đó là lỗi ý. Ví dụ: cấu thành tội phạm cơ bản của tội hiếp dâm (khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự) có dấu hiệu là lỗi cố ý; cấu thành tội phạm tăng nặng của tội này (ý một điểm d khoản 3 Điều 141 Bộ luật Hình sự) có dấu hiệu tăng nặng là hậu quả chết người và lỗi đối với hậu quả này là vô ý. Như vậy, trong cấu thành tội phạm tăng nặng này có dấu hiệu lỗi thuộc hai loại khác nhau: Lỗi cố ý đối với dấu hiệu khách quan mà cấu thành tội phạm cơ bản phản ánh và lỗi vô ý đối với hậu quả chết người là dấu hiệu khách quan định khung hình phạt tăng nặng. Tương tự như vậy, cấu thành tội phạm tăng nặng tội cố ý gây thương tích… (ý 2 khoản 5 Điều 134 Bộ luật Hình sự – dẫn đến chết người) cũng là cấu thành tội phạm có dấu hiệu lỗi bao gồm hai loại lỗi./.
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời