Mục lục
Nhận dạng, nhận biết giọng nói trong điều tra vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, thực trạng và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật
Tác giả: Bùi Trung Bun [1]
TÓM TẮT
Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ được quy định tại Điều 305 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Từ năm 2009 đến tháng 12 năm 2020, cơ quan An ninh điều tra (ANĐT) đã khởi tố, điều tra 537 vụ án loại này và tổ chức 243 cuộc nhận dạng, 23 cuộc nhận biết giọng nói. Trong quá trình tiến hành các hoạt động điều tra này, cơ quan ANĐT đã gặp một số khó khăn nhất định xuất phát từ quy định của pháp luật về nhận dạng và nhận biết giọng nói2. Bài báo phân tích thực trạng tổ chức nhận dạng và nhận biết giọng nói trong điều tra vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; từ đó, đưa ra giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật.
1. Những bất cập trong quy định của pháp luật về biện pháp nhận dạng, nhận biết giọng nói trong điều tra vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ được quy định tại Điều 305 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015). Đây là loại tội phạm rất nguy hiểm, không chỉ gây ra những vấn đề phức tạp, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự mà còn tạo tiền đề cho các loại tội phạm khác như khủng bố, tài trợ khủng bố, khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân… Trong quá trình điều tra loại án này, cơ quan ANĐT các cấp đã sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp điều tra, trong đó có hoạt động nhận dạng, nhận biết giọng nói.
Hoạt động nhận dạng được quy định lần đầu tiên trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988 tại Điều 114, Chương 12; sau đó được quy định tại Điều 139, Chương 11, BLTTHS năm 2003 và tại Điều 190, Chương 12, BLTTHS năm 2015. Nhận biết gọng nói được quy định lần đầu tiên trong BLTTHS năm 2015 tại Điều 191. Trước khi nhận biết giọng nói được đưa vào BLTTHS năm 2015, biện pháp này vẫn được Cơ quan điều tra sử dụng dưới hình thức nhận dạng người qua giọng nói. Như vậy, có thể hiểu, bản chất của nhận biết giọng nói là nhận dạng người qua giọng nói.
Nhận dạng và nhận biết giọng nói được áp dụng khá phổ biến trong điều tra các vụ án hình sự nói chung, đặc biệt trong điều tra các vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Qua đó nhằm phát hiện người phạm tội; kiểm tra, xác minh những tài liệu đã thu thập được và phát hiện, làm rõ thêm những tài liệu mới về vụ án; phát hiện ra vật chứng; làm rõ vai trò, vị trí và mức độ phạm tội của các bị can trong vụ án…
Quá trình tổ chức nhận dạng, nhận biết giọng nói trong điều tra vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, Cơ quan ANĐT các cấp đã và đang gặp một số khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng tới kết quả, tiến độ của cuộc điều tra. Nguyên nhân chủ yếu của các khó khăn, vướng mắc này chủ yếu đến từ các quy định của pháp luật.
1.1. Nhận dạng
Một là, về diện đối tượng nhận dạng.
Đối tượng nhận dạng gồm 4 đối tượng: người, vật, ảnh, tử thi3. Tuy nhiên, thực tiễn công tác điều tra một số vụ án sử dụng trái phép vật liệu nổ cho thấy, có trường hợp Cơ quan ANĐT phải xác định hiện trường của vụ án – nơi thực hiện hành vi phạm tội hoặc nơi phát hiện ra dấu vết, vật chứng của vụ án để củng cố lời khai, cũng như củng cố giá trị chứng minh, cũng như diễn biến của quá trình phạm tội mà không nhằm mục đích khám nghiệm hiện trường, nhưng trong BLTTHS lại không quy định về việc nhận dạng về địa điểm liên quan đến vụ án. Ví dụ như vụ Nguyễn Văn Ánh sử dụng trái phép vật liệu nổ để khai thác đá tại nhiều địa điểm khác nhau trong khoảng thời gian tương đối dài nên Ánh không nhớ hết các địa điểm đó, Cơ quan ANĐT đã phải dẫn đối tượng Ánh đến các địa điểm để xác định chính xác nơi Ánh phạm tội. Như vậy, diện đối tượng nhận dạng nên có thêm “địa điểm”, bởi vì bản chất của hoạt động xác định hiện trường của vụ án nhưng không nhằm mục đích khám nghiệm hiện trường chính là nhận dạng. Việc không quy định nhận dạng “địa điểm” khiến việc thực hiện hoạt động điều tra này không thống nhất giữa các Cơ quan điều tra. Có trường hợp Cơ quan điều tra lập biên bản về nhận dạng “địa điểm” nhưng không nhận được sự đồng tình của Viện kiểm sát.
Hai là, về người được đưa ra nhận dạng.
Quy định của BLTTHS năm 2003 về nhận dạng còn bất hợp lý, chưa hoàn chỉnh, BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung về nội dung này, tuy nhiên vẫn chưa đầy đủ. Diện người nhận dạng trong BLTTHS năm 2015 không thay đổi so với BLTTHS năm 2003, chỉ gồm: bị can, bị hại, người làm chứng4. Diện người nhận dạng này chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn điều tra vì trên thực tiễn có trường hợp yêu cầu điều tra đặt ra cần phải thu thập tin tức, tài liệu để truy bắt đồng phạm hoặc làm căn cứ khởi tố vụ án thì Cơ quan điều tra hoàn toàn tổ chức cho người bị bắt, người bị tạm giữ nhận dạng. Thực tiễn quá trình điều tra vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liêu nổ, Cơ quan ANĐT thường tổ chức cho người tố giác tiến hành nhận dạng đối tượng phạm tội để truy bắt. Kết quả của một số cuộc nhận dạng này không nhận được sự đồng thuận của Viện Kiểm sát do đó, không có giá trị pháp lý mà chỉ sử dụng để tham khảo5. Có thể nói, việc quy định diện đối tượng nhận dạng tương đối hẹp đã gây một số khó khăn nhất định cho công tác đấu tranh chống tội phạm của Cơ quan điều tra. Chẳng hạn như trong vụ việc ông Đinh Văn Nến tố giác Nguyễn Huy Lục sử dụng trái phép vật liệu nổ. Vì cần có căn cứ để bắt giữ đối tượng Lục nên Cơ quan điều tra đã tổ chức cho ông Nến nhận dạng đối tượng Lục qua ảnh. Thời điểm này, ông Nến có vị trí tố tụng là người tố giác tội phạm. Mặc dù kết quả nhận dạng: Ông Nến đã nhận ra và xác định chính xác đối tượng Lục nhưng Viện kiểm sát vẫn không đồng ý cho Cơ quan điều tra bắt giữ đối tượng Lục vì việc tổ chức nhận dạng với người tố giác tội phạm không có giá trị pháp lý.
Ba là, về đối tượng tương tự trong trường hợp nhận dạng người qua băng hình.
Đây là trường hợp đặc biệt khi nhận dạng người vì không có đối tượng tương tự. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì “đối tượng tương tự phải ít nhất là 2” tuy nhiên đối với băng hình thì cơ quan ANĐT thường không tìm thêm được đối tượng tương tự. Để phục vụ việc truy bắt đối tượng, vẫn có thể tiến hành nhận dạng ngay được. Điển hình như trong vụ án Trần Nguyễn Thảo Quyên mua bán trái phép vật liệu nổ tại thành phố Hồ Chí Minh. Khi Quyên khai mua vật liệu nổ của một đối tượng tên Việt thường gọi là Việt “Hàn” tại một chung cư ở Thành phố Hồ Chí Minh, Quyên không biết rõ tên và số phòng đối tượng này ở khi giao nhận hóa đơn là ở sảnh của chung cư. Cơ quan điều tra đã trích xuất camera chung cư cho Quyên nhận dạng, kết quả Quyên nhận ra đối tượng mà Quyên đã mua vật liệu nổ là Nguyễn Tiến Việt trú tại phòng 1307 của chung cư. Từ kết quả đó, Cơ quan ANĐT đã tiến hành khám xét và thu được lượng vật liệu nổ lớn tại chỗ ở của đối tượng Việt. Trong trường hợp này rõ ràng việc nhận dạng qua băng hình không có giá trị pháp lý chỉ mang tính tham khảo. Có thể thấy, với trường hợp nhận dạng qua băng hình, Cơ quan điều tra gần như không thể tìm được băng hình “tương tự” phù hợp với quy định của pháp luật.
Bốn là, chế độ đối với những người tham gia là đối tượng tương tự trong nhận dạng chưa được quy định trong bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào.
Hiện nay cơ quan ANĐT vẫn vận dụng họ với tư cách là người làm chứng của vụ án nhưng thực tế họ không phải là người làm chứng6.
Năm là, về thời điểm hỏi người nhận dạng trước khi tiến hành nhận dạng.
Việc hỏi người nhận dạng trước khi tiến hành nhận dạng giúp cho người nhận dạng có thời gian, điều kiện để nhớ lại các tình tiết, vết tích và đặc điểm của đối tượng mà họ đã tri giác trước đây; là cơ sở để kiểm tra, đánh giá lời khai của họ sau khi việc nhận dạng kết thúc và cũng để xác định lại việc có cần thiết tiến hành nhận dạng hay không. Tuy vậy, quy định về việc hỏi người nhận dạng tại Khoản 4 Điều 190 BLTTHS còn chưa cụ thể dẫn đến hai cách hiểu khác nhau khi áp dụng.
Cách hiểu thứ nhất: Trong buổi nhận dạng, nhận biết giọng nói, Điều tra viên phải hỏi người nhận dạng, rồi sau đó mới cho họ bắt đầu nhận dạng. Cách hiểu thứ hai: Điều tra viên phải hỏi người nhận dạng, trước khi tiến hành nhận dạng thời gian trước đó bao lâu cũng được (chẳng hạn như trong vụ án Đậu Trọng Cường mua bán trái phép vật liệu nổ vào năm 2014, Điều tra viên hỏi người nhận dạng trước khi tiến hành nhận dạng 14 ngày7). Chính vì những cách hiểu khác nhau này nên việc tổ chức thực hiện hỏi người nhận dạng trước khi nhận dạng trong điều tra vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ tại các Cơ quan ANĐT vẫn có độ vênh nhất định, cần có sự thống nhất về trình tự, thủ tục.
1.2. Nhận biết giọng nói
Một là, diện người đưa ra nhận biết giọng nói Theo quy định tại Điều 191 BLTTHS năm 2015, diện người đưa ra nhận biết giọng nói gồm: bị hại, người làm chứng, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Diện người được đưa ra nhận biết giọng nói nhìn chung rộng hơn diện người được đưa ra nhận dạng. Tuy nhiên, thực tiễn điều tra các vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ thấy rằng giống với nhận dạng, trong các trường hợp nhất định, Cơ quan điều tra có thể đưa người tố giác, báo tin về tội phạm; người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tiến hành nhận biết giọng nói.
Hai là, cũng tương tự với nhận dạng, chế độ đối với những người tham gia là đối tượng tương tự trong nhận biết giọng nói cũng chưa được quy định cụ thể, cần phải bổ sung kịp thời.
Ba là, thời điểm hỏi người nhận biết giọng nói trước khi tiến hành cũng chưa được quy định cụ thể Bốn là, về trình tự tổ chức nhận dạng, nhận biết giọng nói trong vụ án tổ chức cả hai hoạt động này.
Trong 537 vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, có 18 vụ án vừa tổ chức nhận dạng, vừa tổ chức nhận biết giọng nói. Đối với những trường hợp này, Cơ quan điều tra thường phân vân trong việc tổ chức nhận dạng trước hay nhận biết giọng nói trước. Có 4 trường hợp cơ quan điều tra tổ chức nhận dạng trước, có 3 trường hợp tổ chức đồng thời vừa nhận dạng, vừa nhận biết giọng nói, còn lại 11 trường hợp tổ chức nhận biết giọng nói trước, tổ chức nhận dạng sau8. Việc sắp xếp thứ tự tổ chức nhận dạng, nhận biết giọng nói có ảnh hưởng không nhỏ đến tính khách quan đến kết quả của hai hoạt động điều tra này. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có văn bản nào hướng dẫn về vấn đề này.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động nhận dạng, nhận biết giọng nói
Để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong áp dụng các quy định pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, tác giả đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về nhận dạng, nhận biết giọng nói như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện quy định pháp luật về nhận dạng.
Một là, cần sửa đổi Điều 190 BL TTHS năm 2015 theo hướng:
+ Bổ sung đối tượng nhận dạng là địa điểm: Điều 190 BLTTHS năm 2015 quy định: “Khi cần thiết, ĐTV có thể đưa người, ảnh hoặc vật cho người làm chứng, bị hại hoặc bị can nhận dạng. Số người, ảnh hoặc vật đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba và bên ngoài phải tương tự nhau, trừ trường hợp nhận dạng tử thi”9. Như vậy, đối tượng nhận dạng ở đây bao gồm: người, ảnh, vật, tử thi. Tuy nhiên, thực tế điều tra có trường hợp Cơ quan điều tra cần xác định chính xác địa điểm gây án, nơi có chứa đựng dấu vết, vật chứng của vụ án. Do vậy, có trường hợp ĐTV phải tổ chức dẫn người bị hại, bị can, người làm chứng, người bị bắt, người bị tạm giữ đến địa điểm để xác định hiện trường vụ án và lập biên bản xác định hiện trường hoặc biên bản nhận dạng địa điểm. Tuy nhiên, các hoạt động trên đều chưa được quy định trong BLTTHS. Xét về mặt bản chất việc xác nhận địa điểm (xác định hiện trường) chính là nhận dạng địa điểm do ĐTV tổ chức nhằm đáp ứng yêu cầu điều tra nhưng do địa điểm chưa được quy định là đối tượng của nhận dạng nên sẽ không bảo đảm chặt chẽ về mặt pháp lý. Vì vậy, cần bổ sung “địa điểm” là đối tượng nhận dạng. Khoản 1 Điều 190 BLTTHS năm 2015 nên sửa đổi thành: “Khi cần thiết, ĐTV có thể đưa người, ảnh, vật cho những người tham gia tố tụng nhận dạng. Số người, ảnh, vật đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba và bề ngoài phải tương tự nhau, trừ trường hợp nhận dạng tử thi, địa điểm”.
+ Bổ sung thêm diện người nhận dạng gồm cả người bị bắt, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ, người tố giác báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong BLTTHS năm 2015.
Về diện người nhận dạng quy định trong BLTTHS năm 2015 không thay đổi so với BLTTHS năm 2003 đều bao gồm bị can, người làm chứng, người bị hại nhưng diện người nhận biết giọng nói trong BLTTHS năm 2015 lại rộng hơn diện người nhận dạng gồm người làm chứng, bị hại, bị can và cả người bị bắt, người bị tạm giữ10. Điều này đáp ứng yêu cầu thực tiễn điều tra. Tuy nhiên, việc quy định không mở rộng diện người nhận dạng là chưa thực sự hợp lý bởi vì thực tế không chỉ có những người này mới có thể trở thành người nhận dạng mà còn có thể có cả người bị bắt, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ hoặc cho cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhận dạng nếu xét thấy cần thiết. Từ thực tế nhận dạng trong điều tra vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, trong những trường hợp Cơ quan điều tra bắt các đối tượng phạm tội quả tang, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, chưa khởi tố vụ án, mới chỉ có quyết định tạm giữ hình sự các đối tượng này, nhưng vì yêu cầu điều tra đặt ra cần thu thập tin tức, tài liệu để truy bắt đồng phạm của chúng hoặc làm căn cứ khởi tố vụ án hình sự thì Cơ quan điều tra hoàn toàn có thể tổ chức cho người bị bắt, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ tiến hành nhận dạng. Thậm chí, cả người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố cũng có thể cho nhận dạng, vì theo Điều 147 BLTTHS năm 2015 quy định về thời hạn, thủ tục giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì thời gian Cơ quan chức năng giải quyết tin báo tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố tối đa là 4 tháng11. Trong thời gian này, Cơ quan điều tra hoàn toàn có thể tổ chức cho những người trên nhận dạng để làm căn cứ xác định sự thật và giải quyết vụ việc có tính chất hình sự.
+ Bổ sung diện đối tượng nhận dạng không cần vật tương tự là video về hành vi phạm tội của đối tượng. Trong những trường hợp này, Cơ quan ANĐT thường là sẽ rất khó hoặc không thể tìm được đối tượng tương tự.
Hai là, trước mắt khi chưa sửa quy định về nhận dạng tại Điều 190 BLTTHS, Bộ Công an cần có văn bản cụ thể hướng dẫn về hoạt động nhận dạng. Trong nội dung văn bản đó,cần bổ sung ngay một số nội dung gồm: (1) bổ sung diện đối tượng nhận dạng gồm: người bị bắt, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ, người tố giác báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; (2) bổ sung thêm về đối tượng cần nhận dạng là “địa điểm”; (3) bổ sung thêm quy định về những trường hợp không cần “đối tượng tương tự” như: “địa điểm”, “video về quá trình thực hiện hành vi phạm tội”. Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể về chi phí cho đối tượng tương tự trong nhận dạng theo hướng ngang bằng với người làm chứng. Trong văn bản quy phạm pháp luật này, Bộ Công an cũng cần quy định rõ về việc hỏi người người nhận dạng ngay trước khi tiến hành nhận dạng để làm cơ sở đánh giá kết quả cuộc nhận dạng.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định pháp luật về nhận biết giọng nói.
Một là, nhận dạng và nhận biết giọng nói là 02 hoạt động điều tra có tính tương đồng cao. Bởi vì bản chất của nhận biết giọng nói là việc người được đưa ra nhận biết giọng nói “nhận dạng” giọng nói của đối tượng nghi vấn. Do đó, một số đề xuất về mặt hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động nhận dạng tương đồng với hoạt động nhận biết giọng nói. Cụ thể là: (1) bổ sung diện người đưa ra nhận dạng gồm: người tố giác, báo tin về tội phạm; người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; (2) bổ sung chi phí cho người được chọn làm đối tượng tương tự trong cuộc nhận biết giọng nói theo hướng ngang bằng với người làm chứng; (3) quy định rõ Cơ quan điều tra phải hỏi người được đưa ra nhận biết giọng nói ngay trước khi tiến hành nhận biết giọng nói.
Hai là, đối với trình tự tiến hành nhận dạng, nhận biết giọng nói khi tổ chức 02 hoạt động này cùng lúc. Bộ Công an nên ra văn bản hướng dẫn về trình tự thủ tục thực hiện theo hướng tổ chức nhận biết tiếng nói trước, nhận dạng sau để đảm bảo tính khách quan và thống nhất cách thực hiện, cụ thể:
+ Trước hết, nhận biết giọng nói: Điều tra viên bố trí người nhận biết giọng nói và các đối tượng cần nhận biết giọng nói ở hai vị trí khác nhau. Ở vị trí thứ nhất, bố trí các đối tượng cần nhận biết giọng nói cùng với một điều tra viên và một người chứng kiến. Ở vị trí thứ hai, bố trí người nhận biết giọng nói cùng với điều tra viên chủ trì cuộc nhận biết giọng nói, thư ký cuộc nhận dạng và người chứng kiến. Giữa hai vị trí này phải có vật che chắn để đảm bảo người nhận biết giọng nói và đối tượng cần nhận biết giọng nói không nhìn thấy nhau, nhưng người nhận biết giọng nói có thể nghe rõ tiếng nói của đối tượng cần nhận biết giọng nói. Sau khi bố trí xong mới tổ chức nhận biết giọng nói.
+ Sau khi tổ chức xong nhận biết giọng nói, Điều tra viên tập trung những người ở hai vị trí lại một nơi để tiến hành nhận dạng12.
Việc tổ chức nhận biết giọng nói trước, tổ chức nhận dạng sau giúp cho người nhận dạng, nhận biết giọng nói đưa ra nhận định khách quan hơn, đồng thời giúp thống nhất trong việc thực hiện.
Trên đây là một số vấn đề liên quan đến nhận dạng, nhận biết giọng nói trong điều tra vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ được quy định tại Điều 305 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Trong phạm vi bài viết, tác giả chỉ ra các vướng mắc về mặt quy định của pháp luật, từ đó, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định này, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm trong đó có tội phạm chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ giai đoạn hiện nay./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sỹ, Giảng viên, Học viện an ninh nhân dân.
- Cơ quan An ninh điều tra – Bộ Công an, Báo cáo tổng kết công tác điều tra vụ án các năm 2009-2020.
- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tr.166.
- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tr.166.
- Kỷ yếu tổng kết kinh nghiệm điều tra vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ năm 2015, tr.92.
- Kỷ yếu tổng kết kinh nghiệm điều tra vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ năm 2015, tr 54.
- Hồ sơ vụ án Đậu Trọng Cường mua bán trái phép vật liệu nổ năm 2014.
- Cơ quan An ninh điều tra – Bộ Công an, Báo cáo tổng kết công tác điều tra vụ án các năm 2009 – 2020.
- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tr.166.
- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tr168.
- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tr.127.
- Tài liệu hội nghị tổng kết công tác nhận dạng, nhận biết giọng nói trong điều tra hình sự của Cơ quan ANĐT năm 2018, tr 98.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Cơ quan An ninh điều tra – Bộ Công an, (2015), Kỷ yếu tổng kết kinh nghiệm điều tra vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
- Cơ quan An ninh điều tra – Bộ Công an, Báo cáo tổng kết công tác điều tra vụ án các năm 2009 – 2020.
- Vũ Hữu Quân, (2018), Nhận dạng trong điều tra hình sự, Luận án tiến sỹ, Học viện An ninh nhân dân.
Trả lời