Miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 từ góc độ tư pháp phục hồi
- Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi trên cơ sở hướng dẫn của liên hợp quốc về tư pháp phục hồi – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Bàn về miễn trách nhiệm hình sự theo Luật hình sự Việt Nam trên nền tảng của nguyên tắc suy đoán vô tội – TS. Hoàng Thị Tuệ Phương
- Một số vấn đề về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh
- Tội “Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội’’ và phương hướng hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự đáp ứng yêu cầu phòng, chống bỏ lọt tội phạm – ThS. Trần Đình Hải
- Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán ở Việt Nam nhìn từ yêu cầu phát triển bền vững thị trường chứng khoán – ThS. Nguyễn Thị Lan Anh
TỪ KHÓA: Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Miễn trách nhiệm hình sự, Trách nhiệm hình sự, Tư pháp phục hồi
TÓM TẮT
Thực tiễn áp dụng miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), do cách hiểu khác nhau, dẫn đến việc áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, kéo theo việc không bảo đảm sự công bằng giữa những người phạm tội. Bài viết phân tích một vài vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định này, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm giải quyết.
Luật hình sự Việt Nam được xây dựng trên nền tảng của tư pháp theo cách tiếp cận truyền thống, trong đó tập trung giải quyết 03 vấn đề chính là xác định: ai đã thực hiện hành vi vi phạm, hành vi đã vi phạm quy định nào của pháp luật và người vi phạm phải bị xử lý như thế nào. Cách tiếp cận này chủ yếu coi trọng việc làm rõ người thực hiện hành vi vi phạm và trừng trị. Trong khi đó việc khắc phục hậu quả gây ra cho bị hại/ nạn nhân hay cho cộng đồng hay khôi phục lại mối quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân/ cộng đồng không phải là mục tiêu hàng đầu. Tuy nhiên, “thực tiễn Việt Nam đã áp dụng những hình thái nhất định của tư pháp phục hồi”[1] như khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã cho phép người thực hiện hành vi vi phạm thỏa thuận khắc phục hậu quả với người bị hại để được người bị hại đề nghị miễn trách nhiệm hình sự (TNHS). Nói rằng đây là biểu hiện của tư pháp phục hồi bởi vì cách tiếp cận này chú trọng giải quyết 03 nội dung: vụ vi phạm đã gây ra những thiệt hại gì; cần phải làm gì để khắc phục thiệt hại của vụ vi phạm đó; ai phải chịu trách nhiệm khắc phục thiệt hại. Tư pháp phục hồi chú trọng đến sự tham gia tích cực, nhu cầu của nạn nhân, cộng đồng và người vi phạm pháp luật với mục đích là “ủng hộ nạn nhân, cho họ tiếng nói, khuyến khích họ trình bày về nhu cầu, cho phép họ tham gia vào tiến trình tìm phương án giải quyết và cung cấp sự hỗ trợ cho họ; sửa chữa những mối quan hệ bị gây thiệt hại bởi tội phạm một phần bằng cách đạt được sự đồng thuận về phương án tốt nhất để xử lý nó”.[2]
Như vậy, mặc dù cách tiếp cận tư pháp phục hồi chưa được chính thức thừa nhận trong pháp luật hình sự Việt Nam, việc ghi nhận quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là một bước tiến bộ “trên tinh thần cải cách tư pháp với mục tiêu hài hòa các quy định của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực tư pháp hình sự với pháp luật quốc tế, đặc biệt các văn bản quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết”.[3] Điều này thể hiện mong muốn người vi phạm chịu trách nhiệm trong việc khắc phục thiệt hại cho nạn nhân, cộng đồng, chứ không chỉ đối với Nhà nước. Trong tương quan đó, khôi phục hoặc sửa chữa thiệt hại, xây dựng mối quan hệ thân thiện với cộng đồng thay cho việc áp dụng hình phạt mới là mục tiêu cơ bản của công lý.[4]
Tuy nhiên, việc xem xét miễn TNHS quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) còn phụ thuộc hoàn toàn vào cách đánh giá của các cơ quan tiến hành tố tụng để xem xét có thể miễn TNHS cho người phạm tội được hay không. Việc điều luật quy định “có thể được miễn trách nhiệm hình sự” nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể trường hợp nào được và trường hợp nào không được miễn TNHS dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau.
1. Thực tiễn áp dụng quy định miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Trong quá trình truy cứu TNHS, điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét miễn TNHS theo khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là: (1) người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác; (2) đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; (3) được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS. Nếu hội đủ ba điều kiện này mới “có thể miễn TNHS”. Việc điều luật quy định mang tính tùy nghi “có thể” và chưa có hướng dẫn cụ thể trường hợp nào thì được miễn TNHS và trường hợp nào thì không được miễn TNHS, dẫn đến việc áp dụng trong thực tế không thống nhất. Cụ thể, trường hợp người phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)), được đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS, thuộc trường hợp xem xét miễn TNHS theo khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nhưng có cơ quan áp dụng để miễn TNHS, có cơ quan lại không áp dụng.
Vụ án Nguyễn Văn D bị Tòa án nhân dân (TAND) huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999 là một ví dụ. Hồ sơ vụ án thể hiện: D điều khiển xe môtô chở anh V lưu thông trên đường Võ Nguyên Giáp theo chiều cầu Nhật Tân đi sân bay Nội Bài. D điều khiển xe môtô đi sai phần đường dẫn đến va chạm vào xe môtô do M điều khiển lưu thông chiều ngược lại. Hậu quả M tử vong, anh V bị chấn thương, D bị thương tích 44%. Nguyễn Văn D đã bồi thường cho gia đình nạn nhân M với số tiền 160.000.000 đồng. Gia đình nạn nhân M có đơn xin miễn truy cứu TNHS đối với D.
Trong vụ này, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định rằng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì chẳng những đã xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, mà còn xâm hại đến tính mạng và gây thiệt hại về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Do đó, cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, bị cáo đã tích cực bồi thường khắc phục hậu quả cho người bị hại, thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, chưa có tiền án tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, gia đình người bị hại có đơn xin miễn truy cứu TNHS cho bị cáo, bản thân bị cáo bị thương với tỷ lệ 44% tổn thương cơ thể. Với mức độ tổn thương cơ thể của bị cáo, nếu áp dụng hình phạt tù thì sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của bị cáo.
Ngày 15/7/2017, kết thúc xét xử TAND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đã có Bản án số 92/2017/HSST tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” xử phạt D 10 tháng tù cho hưởng án treo. Như vậy, trong vụ án này TAND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đã không áp dụng khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 miễn TNHS cho bị cáo D, mặc dù đã hội đủ các điều kiện: phạm tội nghiêm trọng do vô ý, đã bồi thường cho gia đình nạn nhân và đã được gia đình nạn nhân viết đơn xin miễn truy cứu TNHS. Ngoài ra, D còn bị thương tích 44%.
Trong khi đó, cũng về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999 và thuộc trường hợp tương tự, vẫn có cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 miễn TNHS (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Vụ án Trần Ngọc N bị TAND thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999 là một ví dụ. Theo hồ sơ vụ án, anh K điều khiển xe môtô chở con là T phía trước và vợ là H ngồi sau ôm con là Th. lưu hành theo hướng Bắc – Nam trên đường. Khi xe đến gần dải phân cách thì N điều khiển xe môtô chạy phía sau cùng chiều đến, không chú ý quan sát, không giữ khoảng cách an toàn và không làm chủ tốc độ nên đã tông vào xe môtô do anh K điều khiển gây tai nạn. Hậu quả chị H chết.
Người đại diện hợp pháp của người bị hại là anh K (chồng chị H) trình bày: Giữa gia đình anh và bị cáo đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong về phần dân sự, anh không có bất kỳ yêu cầu gì thêm. Anh thấy sự việc xảy ra là ngoài ý muốn nên đã có đơn đề nghị miễn TNHS cho bị cáo N, tại phiên tòa anh K vẫn giữ nguyên đề nghị miễn TNHS cho bị cáo Trần Ngọc N. Nhận xét của HĐXX là hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ và gây thiệt hại đến tính mạng, tài sản của người khác. Tuy nhiên, xét bị cáo là người có nhân thân tốt, sau khi phạm tội đã tự nguyện sửa chữa, khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Hành vi phạm tội của bị cáo do lỗi vô ý, bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa giải, thỏa thuận bồi thường xong toàn bộ thiệt hại và người đại diện hợp pháp của người bị hại đề nghị miễn TNHS đối với bị cáo. Xét việc người đại diện hợp pháp của người bị hại đề nghị miễn TNHS đối với bị cáo là tự nguyện, áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo quy định tại Điều 25 BLHS, điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội và khoản 3 Điều 7, khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015, HĐXX quyết định miễn TNHS đối với bị cáo. Ngày 02/8/2017, kết thúc xét xử TAND thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên đã có Bản án số 58/2017/HSST vận dụng khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tuyên bố bị cáo N được miễn TNHS.
Đối với vụ án này, bị cáo N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải xem như điều kiện để xem xét miễn TNHS là có căn cứ. Vì xét cho cùng, mục đích của Nhà nước muốn đạt được đối với người thực hiện hành vi phạm tội là ăn năn hối cải, sữa chữa sai lầm, khắc phục hậu quả thiệt hại đã gây ra.
Có thể dẫn thêm vụ án Đoàn Thành D bị TAND huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai xét xử về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999. Theo hồ sơ vụ án: D điều khiển xe môtô chở C, do D điều khiển xe với tốc độ nhanh, thiếu chú ý quan sát và lấn trái đường nên đã đụng vào xe môtô do ông K điều khiển, chở vợ là bà T ngồi phía sau, đang lưu thông theo chiều ngược lại gây tai nạn làm ông K tử vong tại chỗ.
Quá trình điều tra, gia đình bị cáo D đã tự nguyện bồi thường cho gia đình người bị hại K nên bà T đã làm đơn bãi nại cho D, không yêu cầu gì thêm. Sau khi gây tai nạn, bản thân bị cáo cũng bị chấn thương sọ não. Tòa án đã quyết định trưng cầu giám định tâm thần đối với bị cáo, sau đó đã bắt buộc chữa bệnh đối với bị cáo thời gian hơn 01 năm nhưng kết quả vẫn không chữa lành bệnh được. Nhận định của HĐXX như sau: Với các tình tiết của vụ án đã được chứng minh tại phiên tòa, HĐXX có đủ chứng cứ kết luận bị cáo D phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 202 của BLHS. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa, những người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại đều có ý kiến tự nguyện đề nghị HĐXX xem xét miễn TNHS cho bị cáo D. Căn cứ hướng dẫn tại Công văn 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 của Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của BLHS năm 2015 và quy định tại khoản 3 Điều 29 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), HĐXX quyết định áp dụng để miễn TNHS đối với bị cáo D. Ngày 15/9/2017, kết thúc xét xử TAND huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai đã có Bản án số 54/2017/HS-ST vận dụng khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 tuyên bố bị cáo Đoàn Thành D được miễn TNHS.
Đối với 02 vụ án là Trần Ngọc N – TAND thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên và vụ án Đoàn Thành D – TAND huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai, HĐXX căn cứ vào các điều kiện tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét miễn TNHS và các tình tiết khác như hiện tại người thực hiện hành vi phạm tội có nhân thân tốt, ăn năn hối cải hoặc bị thương tích với tỷ lệ cao sau khi gây tai nạn làm chết người cũng là một trong những căn cứ để HĐXX xem xét miễn TNHS. Có thể thấy HĐXX căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau để cho miễn TNHS, trong đó, có những yếu tố không liên quan, không phản ánh khả năng tự giáo dục cải tạo của bị cáo như người thực hiện hành vi phạm tội có nhân thân tốt (không có tiền án, tiền sự trước khi đưa ra xét xử)[5] hoặc HĐXX căn cứ vào yếu tố người thực hiện hành vi phạm tội bị thương tích tỉ lệ cao là chưa thống nhất khi áp dụng pháp luật. Do đó, nên có hướng dẫn việc áp dụng các yếu tố này.
Như vậy, cũng cùng một hành vi cấu thành tội phạm nghiêm trọng do vô ý và hội đủ các điều kiện để được áp dụng khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 nhưng có cơ quan áp dụng để miễn TNHS, có cơ quan lại không áp dụng. Việc áp dụng hay không áp dụng là do nhận thức của cơ quan THTT trong khi chưa có hướng dẫn cụ thể.
Ngoài ra, có trường hợp bị cáo có nhiều hơn những điều kiện để xem xét miễn TNHS, bị cáo có đơn kháng cáo yêu cầu áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 nhưng hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vẫn tuyên hình phạt tù đối với bị cáo mà không xem xét miễn TNHS.
Ví dụ, vụ án Lai Văn N bị TAND tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999. Hồ sơ vụ án thể hiện: N điều khiển xe ôtô đi trên tuyến đường Lê Lai, do N lo nhìn xe môtô đi ngược chiều và không chú ý quan sát ở mép đường hướng bên phải của hướng đi, nên khi N cho xe ôtô chạy sát lề đường bên phải để tránh xe môtô đi ngược chiều thì đụng vào D và E đang đứng vệ sinh (tiểu) ở sát mép đường bên phải và tiếp tục đụng vào đuôi xe môtô của E đang đậu cùng chiều ở lề đường bên phải. Hậu quả làm cho D bị chấn thương nặng dẫn đến tử vong và E bị thương nhẹ. Người đại diện hợp pháp của bị hại D đã tự nguyện hòa giải, bãi nại và đề nghị miễn TNHS cho bị cáo N. Ngoài ra, bị cáo N là lao động chính, nuôi hai em ăn học và ông nội là người có công với cách mạng, bản thân bị cáo N chưa tiền án tiền sự. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 18/2017/HSST ngày 13/7/2017 của Tòa án nhân dân thị xã V, quyết định: Tuyên bố bị cáo N, phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, xử phạt bị cáo N 04 tháng tù (bốn tháng tù).
Ngày 26/7/2017, bị cáo N kháng cáo nộp trực tiếp cho Tòa án nhân dân thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. Quá trình xem xét đơn kháng cáo, HĐXX TAND tỉnh Sóc Trăng nhận định: các lý do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính, bản thân chưa tiền án tiền sự, gia đình bị cáo là người có công với cách mạng. Xét kháng cáo của bị cáo xin miễn hình phạt thì thấy căn cứ các quy định có lợi cho người phạm tội theo quy định của Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015, Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7 và khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 và Hướng dẫn số 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 của Tòa án nhân dân tối cao thì trong vụ án này bị cáo N thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng của bị hại và đã được người đại diện hợp pháp của bị hại D tự nguyện hòa giải, bãi nại và đề nghị miễn TNHS cho bị cáo N thì hành vi của bị cáo Lai Văn N có thể được miễn TNHS. Như vậy, tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) khẳng định là Tòa án “có thể” miễn TNHS chứ không bắt buộc phải miễn TNHS và Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo xử lý hình sự là phục vụ chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương là phù hợp với các quy định của pháp luật. HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên là không chấp nhận kháng cáo của bị cáo xin được miễn hình phạt. Ngày 11/9/2017, TAND tỉnh Sóc trăng kết thúc xét xử đã có Bản án số 46/2017/HS-PT giữ nguyên án sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Lai N 04 tháng tù (bốn tháng tù).
Đối với vụ án này, tuy N đã kháng cáo đúng quy định, vì N đủ điều kiện được miễn TNHS tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nhưng hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm đều tuyên N bốn tháng tù. Nhất là cấp xét xử phúc thẩm của TAND tỉnh Sóc Trăng đã nhận định: “Tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 khẳng định là Tòa án có thể miễn TNHS chứ không bắt buộc phải miễn TNHS và Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo xử lý hình sự là phục vụ chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương là phù hợp với các quy định của pháp luật”. Vậy quy định “có thể miễn” là không bắt buộc miễn và việc TAND tỉnh Sóc Trăng cho rằng “xử lý hình sự bị cáo N là phục vụ chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương là phù hợp” đã thể hiện việc vận dụng khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chưa thống nhất. Vậy cơ quan tiến hành tố tụng lấy căn cứ “phục vụ chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương” để đánh giá xét miễn hay không miễn TNHS cho một người tỏ ra thiếu tính thuyết phục. Do đó, việc cần thiết hơn bao giờ hết là có những quy định cụ thể để thống nhất việc áp dụng quy định về miễn TNHS trong trường hợp này.
Tuy nhiên, như đã chỉ ra, việc xem xét miễn TNHS người phạm tội theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) còn phụ thuộc hoàn toàn vào cách đánh giá của các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc điều luật quy định “có thể được miễn TNHS” nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể trường hợp nào thì được miễn TNHS và trường hợp nào thì không được miễn TNHS dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau. Qua nghiên cứu các vụ án nêu trên, có thể nhận thấy cơ quan tiến hành tố tụng, cụ thể là TAND một số địa phương, có quan điểm không giống nhau khi áp dụng khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), dẫn đến quyền lợi của người bị buộc tội bị ảnh hưởng. Cụ thể, vụ án Nguyễn Văn D, mặc dù đủ điều kiện miễn TNHS, bản thân D bị thương tật 44%, thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, chưa có tiền án tiền sự, gia đình có công với cách mạng nhưng vẫn bị tuyên án mười tháng tù. Đối với vụ án Trần Ngọc N đủ điều kiện miễn TNHS, cũng có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thì lại được miễn TNHS. Vụ án Đoàn Thành D được miễn TNHS theo khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) sau khi gây tai nạn chết người thì bị mất năng lực điều khiển hành vi. Hay vụ án Lai Văn N kháng cáo bản án sơ thẩm đến cấp xét xử phúc thẩm vẫn tuyên y án sơ thẩm bốn tháng tù mặc dù N là lao động chính, nuôi hai em ăn học, gia đình là người có công với cách mạng, chưa tiền án tiền sự. Thiết nghĩ, nếu Lai Văn N, Nguyễn Văn D được đưa ra xét xử tại Tòa án nơi mà Trần Ngọc N, Đoàn Thành D được tuyên miễn TNHS thì có thể đã được miễn TNHS. Vì vậy, muốn áp dụng đúng thống nhất quy định miễn TNHS theo khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì cần phải có hướng dẫn cụ thể trường hợp nào thì được miễn TNHS và trường hợp nào thì không được miễn TNHS để tránh tình trạng vận dụng điều khoản này một cách tùy nghi, phụ thuộc vào ý thức của người tiến hành tố tụng ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân mà Hiến pháp năm 2013 đã hiến định.
2. Kiến nghị hướng dẫn áp dụng miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Như đã phân tích, không phải trường hợp nào cơ quan tiến hành tố tụng cũng áp dụng thống nhất vì có cách hiểu khác nhau nội dung miễn TNHS theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), ảnh hưởng đến việc áp dụng (hoặc không áp dụng). Do vậy, việc có một hướng dẫn áp dụng thống nhất nội dung miễn TNHS theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là hết sức cần thiết, tạo hành lang pháp lý cho cơ quan và người tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm sự công bằng cho người bị buộc tội nói riêng (vì cùng một trường hợp phạm tội như nhau nhưng do cách đánh giá của cơ quan, người tiến hành tố tụng không giống nhau mà có thể cho hoặc không cho bị cáo được miễn TNHS) và công bằng xã hội nói chung.
BLHS năm 2015, cụ thể khoản 3 Điều 29 BLHS (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có hiệu lực nhưng nội dung điều luật vẫn còn quy định “có thể được miễn TNHS”. Nếu bỏ cụm từ “có thể” thì điều khoản này sẽ trở thành quy định “cứng” mặc nhiên người phạm tội hội đủ các điều kiện sẽ được miễn mà không cần các điều kiện nào khác hoặc không còn phụ thuộc vào cách đánh giá của cơ quan tiến hành tố tụng thì thiết nghĩ cũng sẽ làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và công tác phòng ngừa chung, phòng ngừa riêng. Điển hình như người phạm tội giàu có nên khi gây tai nạn giao thông hậu quả nghiêm trọng, người phạm tội sẽ đền bù số tiền lớn để được gia đình bị hại hoặc bị hại làm đơn đề nghị miễn TNHS và được miễn TNHS, dẫn đến tâm lý không ăn năn hối cải vì có số tiền lớn đền bù là được miễn TNHS, coi thường pháp luật và tái phạm.
Như đã đề cập, tư pháp phục hồi đang có ảnh hưởng đến pháp luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, vận dụng như thế nào để đạt được mục đích chính là “sửa chữa những mối quan hệ bị gây thiệt hại bởi tội phạm một phần bằng cách đạt được sự đồng thuận về phương án tốt nhất để xử lý nó”[6] và “có thể tránh được quá trình xét xử kéo dài, gây căng thẳng cho nạn nhân cũng như bị cáo; có thể thực hiện thủ tục tư pháp phục hồi ở những nơi có thủ tục này và việc bồi thường có thể diễn ra nhanh chóng hơn”[7] nhằm mục đích chính là để người vi phạm tự ăn năn hối cải trong bản thân họ để góp phần giáo dục họ không tái phạm tội, đạt hiệu quả phòng ngừa. Mặc dù tư pháp phục hồi chưa chính thức là cơ sở lý luận cho chế định miễn TNHS tại nước ta, tuy nhiên vì “tư pháp phục phồi xuất hiện trên thế giới vào khoảng những năm 1990 và nhanh chóng được chấp nhận rộng rãi của các quốc gia tiên tiến vì đặc điểm và mục đích tốt đẹp của nó. Liên hợp quốc cũng đã nghiên cứu và ban hành văn bản pháp luật, tài liệu hướng dẫn sử dụng tư pháp phục hồi trong lĩnh vực hình sự trên cơ sở đánh giá các chương trình đã và đang áp dụng bởi các quốc gia thành viên”.[8] Như vậy, có thể thấy tư pháp phục hồi là xu hướng chung, tiến bộ của thế giới vì nhiều mục đích tốt đẹp nên nó cần là cơ sở lý luận hợp lý cho việc quy định và áp dụng miễn TNHS theo khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, cần có văn bản hướng dẫn áp dụng cụ thể theo hướng người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng đã được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS. Cụ thể, trong quá trình điều tra, truy tố hoặc xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng phải làm rõ thêm các tình tiết cụ thể như sau:
Thứ nhất, người thực hiện tội phạm có thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu hay không. Việc người phạm tội ăn năn hối cải hợp tác trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã giúp kết thúc sớm vụ án, giảm chi phí tố tụng. Ngoài ra “còn thể hiện ý nghĩa quan trọng không những động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng”.[9] Còn tình tiết phạm tội lần đầu là “tình tiết phản ánh đặc điểm nhân thân ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi và người phạm tội”.[10] Do đó nếu là người phạm tội lần đầu thì mức độ nguy hiểm hành vi không đáng kể so với những người tái phạm, tái phạm nguy hiểm hoặc có tính chất chuyên nghiệp… nên xem xét miễn TNHS. Đây cũng là mục đích của tư pháp phục hồi nhằm “giảm tình trạng tái phạm bằng cách khuyến khích sự thay đổi của từng cá nhân người phạm tội và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái hòa nhập cộng đồng”.[11]
Thứ hai, cơ quan tiến hành tố tụng cần làm rõ bị hại tự nguyện làm đơn miễn TNHS, hay do yếu tố khác dẫn đến việc làm đơn, hay vì có những yếu tố như ép buộc, xúi giục làm người bị hại không tự nguyện dẫn đến việc miễn TNHS người phạm tội không đạt hiệu quả phòng ngừa. Vì nguyên tắc cơ bản của tư pháp phục hồi là “những thỏa thuận phải đạt trên cơ sở tự nguyện và chỉ bao gồm các nghĩa vụ hợp lý tương xứng”[12] và nếu không làm rõ việc này thì “họ (có thể) không bị truy cứu TNHS, không bị kết tội, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác và không bị coi là có án tích”[13] dẫn đến không cải tạo, giáo dục được họ.
Thứ ba, cần xem xét rõ về yếu tố lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội và hậu quả (có thể một phần lỗi ở bị hại…), hành vi do người phạm tội thực hiện là hoàn toàn hay một phần do bị hại hoặc một phần do người khác nhưng lỗi chính dẫn đến hậu quả là do đâu để xem xét TNHS vì theo nguyên tắc của tư pháp phục hồi thì “nạn nhân và người phạm tội phải đồng ý về những dữ kiện cơ bản của một vụ án làm cơ sở cho sự tham gia của họ trong quá trình phục hồi”.[14]
Thứ tư, người thực hiện hành vi phạm tội đã bị thiệt hại một phần về sức khỏe hoặc tài sản đối với chính bản thân mình khi thực hiện hành vi phạm tội nghiêm trọng do vô ý hoặc ít nghiêm trọng cần quy cụ thể định lượng này để là một trong những căn cứ xem xét miễn TNHS. Ví dụ: tổn thương cơ thể từ 31% trở lên, hoặc thiệt hại tài sản trên 100.000.000đ bởi tuy là người phạm tội đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng hành vi này cũng đã gây thiệt hại đối với chính bản thân họ. Vì trên thực tế có vụ án người thực hiện hành vi phạm tội đã bị tổn thương cơ thể khá cao như vụ án Nguyễn Văn D bị thương tích 44% thì việc TAND tuyên phạt hình phạt tù cho hưởng án treo để mang tính răn đe, giáo dục, cải tạo người phạm tội thì chưa hợp lý vì bản chất của “miễn TNHS thể hiện nội dung nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam là nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo”.[15]
Thứ năm, người thực hiện hành vi phạm tội có hoàn cảnh gia đình khó khăn, được xác nhận của chính quyền nơi cư trú, bản thân người thực hiện hành vi phạm tội là lao động chính của gia đình thì việc đền bù thiệt hại cho bị hại hoặc gia đình bị hại không cần phải thỏa mãn hoàn toàn nhưng vẫn được xem xét miễn TNHS. Nghĩa là, cần một định lượng cụ thể trong việc đền bù thiệt hại, việc quy định này thể hiện đặc điểm của tư pháp phục hồi muốn hướng tới “một cách xử lý linh hoạt đối với các tình huống phạm tội, người phạm tội và nạn nhân, cho phép mỗi đối tượng được xem xét riêng biệt”.[16] Ví dụ: nếu gia đình nghèo được xác nhận của chính quyền nơi cư trú thì mức đền bù khoản 70% thiệt hại gây ra là được hoặc bản thân người thực hiện hành vi phạm tội là lao động chính của nuôi gia đình thì mức đền bù là 60%… Phải có một định lượng, định mức để áp dụng vì có những trường hợp tuy đền bù cho bị hại hoặc gia đình bị hại rất nhiều tiền nhưng lại không có ý thức bản thân ăn năn, hối cải thì lại được xem xét miễn TNHS, còn đối với người vi phạm gia đình khó khăn và ngay bản thân họ cũng rất ăn năn hối cải nhưng do gia đình không có tiền để đền bù cho bị hại hoặc gia đình bị hại thõa mãn nên không được xem xét miễn TNHS.
Như vậy, cần quy định cụ thể các vấn đề nêu trên vào một văn bản hướng dẫn dưới luật để cơ quan tiến hành tố tụng nghiên cứu vận dụng thống nhất khi áp dụng khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xem xét miễn TNHS đối với các vụ án cụ thể, tránh tình trạng vận dụng một cách tùy tiện dẫn đến ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân, không làm tốt công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội.
CHÚ THÍCH
[1] Đỗ Hoàng Yến ,“Tư pháp phục hồi trong việc xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 20, 2008.
[2] UNODC , Sách hướng dẫn về các chương trình tư pháp phục hồi, 2006, tr. 7 – 8.
[3] Hoàng Thị Tuệ Phương, “Tư pháp phục hồi (“Restorative Justice”) – Cách tiếp cận của pháp luật quốc tế về tư pháp vị thành niên:, Tọa đàm của Khoa Luật hình sự, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh: Cải cách tư pháp và việc bảo đảm quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 9/12/2013.
[4] Đỗ Hoàng Yến, tlđd.
[5] Theo quan điểm của tác giả, “khả năng tự giáo dục cải tạo” trong trường hợp này cần thể hiện ở việc người phạm tội thành khẩn khai báo, trung thực rõ ràng, không quanh co chối tội góp phần kết thúc sớm vụ án, tránh lãng phí chi phí tố tụng và người phạm tội có biểu hiện ăn năn như thăm hỏi, động viên gia đình nạn nhân… Trong khi đó, “tiền án, tiền sự” là việc Cơ quan điều tra thu thập về nhân thân người phạm tội tại địa phương và tại Cơ quan quản lý hồ sơ, tại Tòa án sau khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Không phải người phạm tội không tiền án, tiền sự là đã phản ánh toàn bộ được khả năng giáo dục cải tạo. Có trường hợp không tiền án, tiền sự nhưng vẫn bất hợp tác với Cơ quan điều tra, quanh co chối tội, đối phó Cơ quan điều tra bằng nhiều cách và không bao giờ thăm hỏi động viên gia đình nạn nhân… Ngược lại có những người tiền án, tiền sự nhưng họ nhận thấy hành vi sai trái nên hối lỗi và hợp tác.
[6] UNODC, tlđd, 2006, tr. 7 – 8.
[7] UNODC, Sổ tay cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà thực tiễn: Tuyển tập ấn phẩm về tư pháp hình sự, 2014, tr. 47.
[8] Lê Huỳnh Tấn Duy, “Hoàn thiện quy định của BLTTHS năm 2015 về các biện pháp giám sát giáo dục người dưới 18 tuổi trên cơ sở hướng dẫn của LHQ về tư pháp phục hồi”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 06, 2017.
[9] Trịnh Tiến Việt, “Về khái niệm miễn trách nhiệm hình sự”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 23, 2007.
[10] Trường Đại học Luật Hà Nội, Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam tập 1, Nxb. Công an nhân dân, 2005, tr. 266 – 267.
[11] UNODC, tlđd, 2006, tr. 8.
[12] ECOSOC, Những nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng chương trình tư pháp phục hồi đối với các vấn đề hình sự năm 2002, mục 6 phần II.
[13] Trịnh Tiến Việt, “Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 và những vấn đề đặt ra khi áp dụng”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Những điểm mới trong Phần chung của Bộ luật Hình sự năm 2015 – So sánh với quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2016, tr. 24.
[14] ECOSOC, Những nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng chương trình tư pháp phục hồi đối với các vấn đề hình sự năm 2002, mục 7 phần II.
[15] Trịnh Tiến Việt, “Hậu quả của việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự: Lý luận, thực tiễn và hướng hoàn thiện pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 21, 2010, tr. 46.
[16] UNODC, tlđd, 2006, tr. 7.
Fanpage Luật sư Online: https://www.facebook.com/iluatsu/
Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Thùy Dung – ThS. Nguyễn Trần Minh Công – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2019 (125)/2019 – 2019, Trang 14-24
Trả lời