Mục lục
Hoàn thiện quy định về hiệu lực theo không gian của Bộ luật Hình sự Việt Nam
Xem thêm bài viết về “Hiệu lực về không gian”
- Các nguyên tắc xác lập hiệu lực về không gian của Luật Hình sự – ThS. Vũ Thị Thúy
TÓM TẮT
Trên cơ sở phân tích căn cứ xác lập hiệu lực theo không gian của luật hình sự các nước trên thế giới nói chung và Bộ Luật Hình sư (BLHS) Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) nói riêng, bài viết này thảo luận những điểm còn hạn chế trong quy định hiện hành của BLHS Việt Nam về hiệu lực theo không gian. Trong bối cảnh nước ta đang xem xét sửa đổi BLHS, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định liên quan của BLHS Việt Nam như quy định rõ hiệu lực của BLHS đối với tội phạm thực hiện trên lãnh thổ mở rộng của quốc gia, xác lập hiệu lực của BLHS dựa trên nguyên tắc quốc tịch bị động và an ninh quốc gia để bảo vệ tốt hơn công dân và lợi ích của quốc gia, xác định rõ những trường hợp tội phạm được coi là thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam và cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013 về không truy cứu hai lần vì cùng một hành vi phạm tội trong BLHS.
1. Dẫn nhập
Bộ luật hình sự, tương tự như các văn bản pháp luật khác, chỉ có hiệu lực trong một giới hạn không gian, thời gian và đối tượng nhất định. Hiện nay, BLHS nước ta áp dụng nguyên tắc lãnh thổ để xác lập hiệu lực đối với mọi hành vi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, BLHS Việt Nam cũng áp dụng nguyên tắc quốc tịch chủ động và nguyên tắc thẩm quyền phổ cập để xác lập hiệu lực đối với những hành vi phạm tội thực hiện ngoài lãnh thổ quốc gia. Những quy định hiện hành đã tạo ra cơ sở pháp lý để Nhà nước ta đấu tranh với mọi tội phạm xảy ra trên lãnh thổ và cả những tội phạm nhất định ở ngoài lãnh thổ quốc gia. Tuy nhiên, quy định về hiệu lực theo không gian của BLHS nước ta vẫn còn một số hạn chế cần được nghiên cứu hoàn thiện; nhất là trong bối cảnh nước ta đang xem xét sửa đổi, bổ sung BLHS hiện hành.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích các căn cứ xác lập hiệu lực theo không gian của luật hình sự trên thế giới nói chung và BLHS Việt Nam nói riêng. Qua đó, chúng tôi thảo luận những điểm còn hạn chế trong quy định hiện hành của BLHS Việt Nam. Trên cơ sở so sánh với quy định của BLHS một số nước trên thế giới, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam về hiệu lực theo không gian.
2. Các căn cứ xác lập hiệu lực của luật hình sự theo không gian
Hiện nay, trên thế giới, các nguyên tắc sau đây được các quốc gia áp dụng để xác lập hiệu lực theo không gian của luật hình sự:
Nguyên tắc lãnh thổ (nguyên tắc lãnh thổ chủ động):
Nguyên tắc lãnh thổ đã hình thành lâu đời trong tập quán quốc tế và được thừa nhận rộng rãi; nó phản ánh mối liên hệ rõ rệt nhất giữa quốc gia với tội phạm, phản ánh chủ quyền quốc gia. Xuất phát từ chủ quyền tối cao về lập pháp, hành pháp và tư pháp của quốc gia, pháp luật của mỗi quốc gia có hiệu lực trên lãnh thổ của quốc gia đó. Do vậy, đối với quyền tài phán về hình sự, luật hình sự của quốc gia cũng có hiệu lực đối với mọi hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ của quốc gia đó.[1]
Nguyên tắc quốc tịch chủ động:
Nguyên tắc quốc tịch chủ động cũng đã hình thành lâu đời trong tập quán quốc tế, dựa trên mối quan hệ pháp lý giữa quốc gia và người thực hiện tội phạm. Nguyên tắc này đã được thừa nhận rộng rãi, và được nhiều nước sử dụng để xác định quyền tài phán hình sự và hiệu lực của luật hình sự quốc gia.[2]
Theo nguyên tắc này, công dân của mỗi quốc gia được quốc gia bảo hộ về mặt pháp lý và có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của quốc gia mình mang quốc tịch. Do vậy, luật hình sự của quốc gia có hiệu lực đối với những công dân của quốc gia đó phạm tội ở nước ngoài. Khi áp dụng nguyên tắc này, một số nước mở rộng hiệu lực đạo luật hình sự của họ đến các đối tượng phạm tội là người không quốc tịch, người nước ngoài thường trú trên lãnh thổ của họ.[3]
Nguyên tắc quốc tịch bị động:
Theo nguyên tắc quốc tịch bị động, đạo luật hình sự của quốc gia có hiệu lực đối với các trường hợp nạn nhân của tội phạm là công dân của quốc gia đó. Nguyên tắc quốc tịch bị động không phổ biến bằng hai nguyên tắc vừa nêu; nhưng để đấu tranh triệt để với tội phạm, một số quốc gia xác định quyền tài phán về hình sự và hiệu lực của đạo luật hình sự theo nguyên tắc này.Có thể kể đến một số quốc gia trên thế giới áp dụng nguyên tắc này như: Pháp, Trung Quốc, Đức.[4]
Nguyên tắc an ninh quốc gia (nguyên tắc lãnh thổ bị động hay nguyên tắc bị xâm hại):
Nguyên tắc bị xâm hại cũng không phải là căn cứ phổ biến để các quốc gia xác lập quyền tài phán hình sự đối với tội phạm và xác định hiệu lực của luật hình sự quốc gia. Tuy nhiên, cũng cần đề cập đến nguyên tắc này để nhận thức toàn diện về các nguyên tắc xác lập quyền tài phán hình sự của các quốc gia trên thế giới.
Theo nguyên tắc này, luật hình sự quốc gia có hiệu lực đối với cả những trường hợp tội phạm xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia nhưng xâm hại đến quốc gia, không phân biệt người phạm tội có phải là công dân quốc gia đó hay không, không phân biệt người bị hại có phải là công dân của quốc gia đó hay không.[5] Hiện nay, một số quốc gia trên thế giới xác lập hiệu lực của luật hình sự dựa trên nguyên tắc này, ví dụ như: Pháp, Đức, Trung Quốc, Nga, Thụy Điển.[6]
Nguyên tắc thẩm quyền phổ cập:
Trước đây, theo truyền thống, các quốc gia không xác lập quyền tài phán đối với tội phạm nếu không có bất cứ một trong những mối liên hệ nào với tội phạm như nêu tại một trong các nguyên tắc liệt kê trên đây. Tuy nhiên, trong thực tiễn đã xuất hiện một số tội phạm đặc biệt nguy hiểm, xâm hại nghiêm trọng đến quyền lợi sống còn của cộng đồng quốc tế, đe dọa hòa bình và an ninh nhân loại; cho nên các quốc gia đã thấy rõ sự cần thiết phải đưa những người phạm tội ra trước công lý, trừng phạt và răn đe để phòng ngừa chung. Với khẳng định về trừng trị các tội phạm quốc tế và một số tội phạm có tính chất quốc tế, trong các điều ước quốc tế liên quan, các quốc gia đã xây dựng một căn cứ mới để xác lập quyền tài phán đối với tội phạm, đó là nguyên tắc thẩm quyền phổ cập.
Theo nguyên tắc này, quốc gia xác lập quyền tài phán hình sự và luật hình sự quốc gia có hiệu lực đối với cả những trường hợp tội phạm xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, không xâm hại đến quốc gia, không do công dân quốc gia đó thực hiện, và người bị hại không phải là công dân của họ. Quyền tài phán xác lập theo nguyên tắc thẩm quyền phổ cập thường dựa vào các điều ước quốc tế mà quốc gia liên quan ký kết hoặc tham gia.
3. Căn cứ xác lập hiệu lực theo không gian của BLHS Việt Nam
Như trên đã đề cập, hiệu lực theo không gian của BLHS Việt Nam được xác lập dựa trên nguyên tắc lãnh thổ và nguyên tắc quốc tịch chủ động. Theo các nguyên tắc này, BLHS có hiệu lực đối với mọi hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam và đối với các hành vi phạm tội do công dân Việt Nam thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, BLHS Việt Nam còn xác lập hiệu lực dựa trên nguyên tắc thẩm quyền phổ cập. Tuy nhiên, hiệu lực của BLHS xây dựng trên nguyên tắc này chỉ áp dụng đối với những loại tội phạm quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết.
3.1. Hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam đối với hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam
Khoản 1 Điều 5 BLHS quy định: “BLHS được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam.” Để làm rõ phạm vi hiệu lực của BLHS Việt Nam theo quy định này, có hai nội dung cần xem xét đó là: lãnh thổ Việt Nam được xác định như thế nào và trong những trường hợp nào thì hành vi phạm tội được coi là thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam?
Lãnh thổ Việt Nam:
Điều 1 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 xác định lãnh thổ Việt Nam bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Đây là lãnh thổ về mặt địa lý. Ở góc độ pháp lý, lãnh thổ thuộc thẩm quyền tài phán về hình sự của quốc gia còn bao gồm lãnh thổ bay và lãnh thổ bơi, hay còn gọi là lãnh thổ mở rộng hoặc lãnh thổ di động (floating territory). Luật hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới đã xác lập hiệu lực trên lãnh thổ mở rộng,[7] có thể nêu một số ví dụ như: Điều 3(1) BLHS Thụy Điển, Điều 4 BLHS Đức; Điều 7 BLHS Mỹ, Điều 6(2) BLHS Trung Quốc, Điều 113-3 và 113-4 BLHS Pháp.
Khoản 1 Điều 5 BLHS Việt Nam quy định về hiệu lực của luật hình sự đối với tất cả các tội phạm thực hiện trên lãnh thổ quốc gia nhưng chưa đề cập đến lãnh thổ mở rộng. Về vấn đề này, trong khoa học pháp lý, có quan điểm cho rằng BLHS Việt Nam có hiệu lực đối với những hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ mở rộng; hay nói cách khác, Việt Nam có quyền tài phán về hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ mở rộng.[8] Theo đó, lãnh thổ mở rộng của Việt Nam bao gồm:
– Các phương tiện bay quân sự, phương tiện bơi quân sự mang cờ Việt Nam được coi là lãnh thổ Việt Nam khi chúng đang bay, bơi, neo, đậu ở bất kỳ khu vực nào trên thế giới; và
– Các phương tiện bay dân sự, phương tiện bơi dân sự đăng ký quốc tịch Việt Nam được coi là lãnh thổ Việt Nam khi đang bay, bơi, neo, đậu ở vùng biển của Việt Nam và cả trong vùng trời quốc tế, vùng biển quốc tế.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật biển năm 2012, vùng biển Việt Nambao gồm“nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng hòaxã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982”.Tuy nhiên, theo pháp luật quốc tế về luật biển, quyền tài phán về hình sự của quốc gia trong từng vùng biển có những giới hạn khác nhau. Cụ thể, theo Điều 27 Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 (Công ước 1982), đối với vùng lãnh hải, quốc gia ven biển không có quyền tài phán về hình sự trên một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải trừ các trường hợp hậu quả của tội phạm mở rộng đến quốc gia ven biển, hành vi phạm tội có tính chất phá hoại hòa bình quốc gia hay trật tự trong lãnh hải, nếu thuyền trưởng hoặc viên chức ngoại giao (hoặc lãnh sự) yêu cầu; hoặc nếu các biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn bán chất ma túy hoặc các chất kích thích. Đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, quyền tài phán về hình sự của quốc gia ven biển cũng tương tự như vậy và đối với vùng đặc quyền kinh tế, Công ước 1982 chỉ quy định một cách khái quát rằng quốc gia ven biển có các quyền tài phán theo những quy định thích hợp của Công ước về việc lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa học về biển; bảo về và giữ gìn môi trường biển và những quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định. Công ước không đề cập đến quyền tài phán về hình sự đối với các hành vi phạm tội gây thiệt hại cho tài sản và công dân của quốc gia ven biển hoặc những hành vi phạm tội thực hiện trên các tàu, thuyền qua lại hoặc khai thác hải sản trong những vùng này.[9]
Mặt khác, Công ước về trấn áp các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng hải năm 1988 (Công ước 1988) đã quy định rõ các hành vi sau đây là tội phạm: dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực bắt giữ hay thực hiện sự kiểm soát đối với tàu; hành vi xâm hại những người trên tàu nếu hành vi đó có khả năng gây nguy hại cho an toàn hàng hải; hủy hoại hoặc cố ý gây hư hỏng cho tàu hoặc hành lý trên tàu nếu hành vi đó có khả năng gây nguy hại cho an toàn hàng hải…[10] Công ước 1988 yêu cầu các quốc gia thành viên áp dụng những biện pháp cần thiết để quy định những hành vi liệt kê trong Công ước là tội phạm và xác lập quyền tài phán đối với những hành vi phạm tội thực hiện trên tàu mang cờ của quốc gia.[11] Việt Nam đã phê chuẩn Công ước này vào ngày 12/7/2002, tuy nhiên BLHS nước ta chưa quy định về hiệu lực của luật hình sự đối với các hành vi thực hiện trên tàu mang cờ Việt Nam. Do vậy, theo chúng tôi, để có cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xác lập và thực hiện quyền tài phán về hình sự đối với những hành vi thực hiện trên tàu mang cờ Việt Nam, BLHS nước ta cần bổ sung và chính thức quy định hiệu lực trên lãnh thổ mở rộng như BLHS của nhiều nước đã quy định.
Tương tự, khoản 1 Điều 5 BLHSnước ta chưa xác lập hiệu lực của BLHS đối với những hành vi phạm tội thực hiện trên tàu bay mang cờ Việt Nam khi các tàu này di chuyển ngoài vùng trời của quốc gia. Theo Công ước về tội phạm và các hành vi bất hợp pháp thực hiện trên tàu bay năm 1963 (Công ước 1963), quốc gia mà tàu bay mang cờ có quyền tài phán đối với tội phạm và các hành vi khác thực hiện trên tàu bay.[12] Công ước cũng yêu cầu các quốc gia thành viên áp dụng những biện pháp cần thiết để xác lập quyền tài phán đối với những hành vi phạm tội và các hành vi khác thực hiện trên tàu bay mang quốc tịch của quốc gia.[13] Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về tội phạm và các hành vi bất hợp pháp thực hiện trên tàu bay năm 1963 vào ngày 8/1/1980.
Hơn nữa, Công ước trấn áp các hành vi chiếm đoạt trái phép tàu bay năm 1970 cũng yêu cầu quốc gia thành viên quy định các hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực chiếm đoạt hoặc thực hiện kiểm soát đối với tàu bay là tội phạm và xác lập quyền tài phán đối với những hành vi phạm tội thực hiện trên tàu bay mang cờ của quốc gia.[14] Việt Nam đã phê chuẩn Công ước này vào ngày 17/9/1979.
Ngoài ra, Công ước trấn áp các hành vi bất hợp pháp liên quan đến an toàn hàng không quốc tế năm 2010 cũng yêu cầu các quốc gia xác lập hàng loạt các hành vi gây nguy hại cho an toàn hàng không quốc tế là tội phạm. Đồng thời, Công ước 2010 yêu cầu các quốc gia áp dụng các biện pháp cần thiết đểxác lập quyền tài phán đối với những hành vi phạm tội thực hiện trên tàu bay mang quốc tịch của quốc gia.[15] Việt Nam cũng đã phê chuẩn Công ước này vào ngày17/9/1979.
Như vậy, nhiều Công ước quốc tế chống các hành vi gây nguy hại cho an toàn hàng không mà Việt Nam đã tham gia yêu cầu các quốc gia thành viên xác lập quyền tài phán đối với những hành vi phạm tội thực hiện trên tàu bay mang cờ của quốc gia. Để thực hiện điều này và để có cơ sở pháp lý trong việc xử lý những tội phạm thực hiện trên tàu bay, BLHS của chúng ta cần quy định hiệu lực đối với những hành vi phạm tội thực hiện trên tàu bay mang cờ Việt Nam như BLHS của nhiều nước đã quy định.
Tội phạm thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam:
BLHS của nước ta không quy định những trường hợp tội phạm được coi là thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý hình sự có nhận thức rằng một tội phạm được coi là thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam khi hành vi được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam, hậu quả xảy ra hoặc hậu quả dự kiến xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam.[16] Qua khảo sát BLHS của các nước trên thế giới, chúng tôi nhận thấy nhiều nước quy định rõ ngay trong BLHS như thế nào là trường hợp tội phạm thực hiện trên lãnh thổ quốc gia. Ví dụ: Điều 6 BLHS Trung Quốc, Điều 113-2 BLHS Pháp, Điều 9 BLHS Đức và Điều 4 Chương 2 BLHS Thụy Điển. Để hoàn thiện cơ sở pháp lý trong việc xử lý tội phạm, chúng tôi thiết nghĩ BLHS nước ta cũng nên có quy định rõ về vấn đề này như được kiến nghị cụ thể ở Mục 4 dưới đây.
3.2. Hiệu lực của đạo luậthình sự Việt Nam đối với hành vi phạm tội xảy raở ngoàilãnh thổ Việt Nam
Dựa trên nguyên tắc quốc tịch chủ động, khoản 1 Điều 6 BLHS quy định:“Công dân Việt Nam phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước CHXHCNVN có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo Bộ luật này.
Quy định này cũng được áp dụng đối với người không quốc tịch thường trú ở nước CHXHCNVN”.
Như vậy, đối với những hành vi phạm tội thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam, BLHS chỉ có hiệu lực đối với những hành vi phạm tội do công dân Việt Nam thực hiện hoặc do người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam thực hiện. Người không quốc tịch là người không mang quốc tịch của bất cứ quốc gia nào. Để xác định như thế nào là người thường trú tại Việt Nam phải dựa vào các quy định liên quan về xuất nhập cảnh và cư trú tại Việt Nam.
Cần đề cập rằng các quy định về hiệu lực của BLHS đối với các hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam có tính bắt buộc, trong khi đó quy định về hiệu lực của BLHS đối với hành vi phạm tội thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam chỉ có tính tùy nghi, có nghĩa là tùy từng trường hợp mà Việt Nam xác lập quyền tài phán về hình sự và áp dụng BLHS Việt Nam để xét xử. Quy định này có tính tùy nghi bởi lẽ khi công dân Việt Nam phạm tội ở nước ngoài, theo nguyên tắc lãnh thổ họ cũng thuộc thẩm quyền tài phán của quốc gia sở tại. Nếu quốc gia sở tại không chuyển giao người phạm tội cho Việt Nam, thì Việt Nam không thể xác lập quyền tài phán và BLHS cũng không thể được áp dụng.
Ngoài ra, đối với những hành vi phạm tội xảy ra ở ngoài lãnh thổ Việt Nam, dựa trên nguyên tắc thẩm quyền phổ cập, khoản 2 Điều 6 BLHS quy định: “Người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ của nước CHXHCNVN có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo BLHS Việt Nam trong những trường hợp được quy định trong các điều ước quốc tế mà nước CHXHCNVN ký kết hoặc tham gia”.
Theo quy định này, BLHS cũng có hiệu lực đối với người nước ngoài phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam theo những điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Tội phạm đã thực hiện phải là những tội phạm quy định trong các điều ước liên quan. Cần nhấn mạnh rằng, hiệu lực của BLHS Việt Nam trong trường hợp này cũng chỉ mang tính tùy nghi.
Vấn đề “Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”:
Khi bàn về hiệu lực của BLHS đối với những hành vi phạm tội xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, cần đề cập rằng Hiến pháp hiện hành của nước ta đã quy định:“Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”.[17] Quy định này dẫn đến một câu hỏi quan trọng liên quan đến hiệu lực của BLHS đối với hành vi phạm tội ngoài lãnh thổ quốc gia đó là: nếu hành vi phạm tội xảy ra ở ngoài lãnh thổ Việt Nam và đã bị nước sở tại xét xử, người phạm tội có thể bị xét xử một lần nữa ở Việt Nam theo quy định của BLHS không?[18]
Hiện nay, BLHS các nước thể hiện hai quan điểm khác nhau về vấn đề này. Quan điểm thứ nhất khẳng định rằng tội phạm thực hiện ở ngoài lãnh thổ quốc gia và đã bị nước sở tại xét xử vẫn có thể bị truy cứu hình sự một lần nữa ở tại quốc gia đó. Ví dụ, BLHS Trung Quốc quy định: trường hợp người phạm tội ở ngoài lãnh thổ của Trung Quốc và phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS Trung Quốc thì dù đã bị xét xử ở nước ngoài vẫn có thể bị truy cứu theo luật hình sự Trung Quốc; tuy nhiên người phạm tội có thể được miễn hình phạt hoặc áp dụng một hình phạt nhẹ hơn nếu họ đã chịu hình phạt ở nước ngoài.[19] Tương tự, BLHS Nhật Bản quy định: “Thậm chí khi bản án không thể hủy bỏ đã được tuyên ở nước ngoài đối với hành vi phạm tội của một người thì điều đó không loại trừ việc người đó phải chịu thêm hình phạt ở Nhật Bản đối với cùng hành vi đó. Tuy nhiên, khi hình phạt được tuyên ở nước ngoài đã được thi hành toàn bộ hoặc một phần thì việc thi hành hình phạt ở Nhật Bản được giảm hoặc miễn”.[20]
Trái lại, theo quan điểm thứ hai, khi tội phạm thực hiện ở ngoài lãnh thổ quốc gia và đã bị tòa án của quốc gia sở tại xét xử thì người phạm tội sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự một lần nữa. Nga, Pháp, Thụy Điển là những nước theo quan điểm này mặc dù có các cách thức quy định khác nhau. Cụ thể, Điều 12(1) và 12(3) BLHS Nga quy định “cứng” như sau: các hành vi phạm tội ngoài lãnh thổ chỉ bị xử lý theo BLHS Nga nếu tòa án nước ngoài chưa ra quyết định xử lý đối với hành vi phạm tội. Điều 113-9 BLHS Pháp cũng quy định “cứng” rằng đối với hành vi phạm tội ngoài lãnh thổ thì không được truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội đã có quyết định cuối cùng ở nước ngoài đối với cùng một hành vi phạm tội; hoặc trong trường hợp bị kết án, thì người phạm tội đã chấp hành xong hình phạt hoặc được miễn trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu truy cứu. Trong khi đó, Điều 5(a) Chương 2 BLHS Thụy Điển quy định tùy nghi, nếu vấn đề trách nhiệm hình sự đối với một hành vi đã được quyết định trong bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cùng hành vi đó tại Thụy Điển. .[21]
Quyền không bị truy cứu hai lần vì cùng một hành vi phạm tội là quyền con người đã được khẳng định tại Điều 14(7) Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự, chính trị năm 1966. Công ước: “Không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án phù hợp với pháp luật và thủ tục tố tụng hình sự của mỗi nước”.[22] Vì vậy, theo quan điểm của chúng tôi, để bảo đảm quyền con người của người phạm tội, BLHS nước ta nên áp dụng quan điểm thứ hai và cần nêu rõ ngay trong BLHS rằng nếu một người phạm tội ngoài lãnh thổ quốc gia và đã bị xét xử bởi quốc gia sở tại thì không bị xét xử theo BLHS Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, có thể xảy ra trường hợp nước sở tại xét xử người phạm tội nhưng không nhằm mục đích đưa người phạm tội ra trước công lý mà chỉ nhằm bảo vệ cho họ không phải chịu trách nhiệm hình sự; hoặc việc xét xử không được tiến hành một cách độc lập hoặc khách quan (có sự vi phạm các thủ tục tố tụng, vi phạm quyền con người). Trong những trường hợp như vậy, các kết quả xét xử tại quốc gia sở tại không đảm bảo tính khách quan, trung thực, công bằng. Vì vậy, bên cạnh việc thừa nhận nguyên tắc không truy cứu hai lần vì cùng một hành vi phạm tội, thiết nghĩ BLHS nước ta cũng nên khẳng định trong những trường hợp ngoại lệ, người phạm tội có thể vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo BLHS Việt Nam. Chúng ta nên tham khảo quy định của Quy chế Tòa án hình sự quốc tế thường trực liên quan đến vấn đề này.[23]
4. Kết luận và kiến nghị
BLHS của nước ta quy định hiệu lực dựa trên nguyên tắc lãnh thổ, nguyên tắc quốc tịch chủ động và nguyên tắc thẩm quyền phổ cập. Quy định này cho phép tòa án Việt Nam xác lập quyền tài phán đối với mọi tội phạm thực hiện trên lãnh thổ quốc gia và tội phạm thực hiện ngoài lãnh thổ quốc gia nhưng do công dân Việt Nam hoặc người không quốc tịch thường trú trên lãnh thổ Việt Nam thực hiện. Quy định hiện hành còn cho phép nước ta xác lập quyền tài phán đối với một số loại tội phạm quy định trong các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia khi các tội phạm đó do người nước ngoài thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Tuy nhiên, các quy định hiện nay về hiệu lực theo không gian của BLHS Việt Nam vẫn còn một số hạn chế mà chúng tôi thiết nghĩ nhà làm luật cần sớm hoàn thiện, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang xem xét việc sửa đổi BLHS. Từ các phân tích nêu trên, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị cụ thể sau đây.
Thứ nhất, quy định rõ về hiệu lực của BLHS đối với những hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ mở rộng
Như đã phân tích, BLHS hiện hành chưa quy định hiệu lực trên lãnh thổ mở rộng là tàu thủy và tàu bay mang cờ Việt Nam. Điều này sẽ làm hạn chế quyền tài phán về hình sự của Việt Nam. Mặt khác, nhiều Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia yêu cầu các quốc gia thành viên áp dụng những biện pháp cần thiết để xác lập quyền tài phán về hình sự đối với những hành vi phạm tội thực hiện trên tàu bay, tàu thủy mang cờ của quốc gia, vì vậy, BLHS cần sớm pháp điển hóa nội dung này.
Thứ hai, xác định rõ như thế nào là trường hợp tội phạm thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam.
Trên thực tế, các hành vi phạm tội diễn ra rất đa dạng và phức tạp. Ví dụ: các hành vi của người nước ngoài điều khiển tàu bay hoặc tàu thủy xâm hại tàu bay hoặc tàu thủy của Việt Nam gây nguy hại cho an toàn hàng không, hàng hải. Những hành vi đó có coi là thực hiện trên lãnh thổ (mở rộng) của Việt Nam không? Để tránh những tranh chấp về thẩm quyền tài phán và tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xác lập và thực hiện quyền tài phán của quốc gia, BLHS nước ta cần xác định rõ ngay trong BLHS như thế nào là trường hợp tội phạm được coi là thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam. BLHS của nhiều quốc gia đã quy định cụ thể về vấn đề này và chúng ta nên học tập kinh nghiệm của họ.[24] Theo đó, chúng tôi ủng hộ quan điểm xác định tội phạm được coi là thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam khi hành vi phạm tội hoặc hậu quả của tội phạm (hoặc hậu quả dự kiến của tội phạm) có một phần xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam.
Thứ ba, xác lập hiệu lực của BLHS dựa trên nguyên tắc quốc tịch bị động.
Để bảo vệ tốt hơn công dân Việt Nam trong trường hợp họ trở thành nạn nhân của các tội phạm thực hiện ngoài biên giới lãnh thổ quốc gia, BLHS nước ta nên xác lập quyền tài phán về hình sự trên nguyên tắc quốc tịch bị động. Nếu chúng ta xác lập quyền tài phán về hình sự dựa trên nguyên tắc này, thì trong trường hợp có tranh chấp về quyền tài phán theo nguyên tắc lãnh thổ, chúng ta vẫn có thể sử dụng nguyên tắc này để xác lập quyền tài phán và bảo vệ công dân. Như trên đã phân tích, hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới như Pháp, Nga, Trung Quốc và Thụy Điển đã xác lập quyền tài phán dựa trên nguyên tắc. Khi xác lập quyền tài phán theo nguyên tắc này, chúng ta cũng nên quy định “mềm dẻo” như cách thức xác lập quyền tài phán trên nguyên tắc quốc tịch chủ động tại Điều 6 BLHS Việt Nam hiện hành.
Thứ tư, xác lập hiệu lực của BLHS dựa trên nguyên tắc an ninh quốc gia.
Như chúng tôi đã đề cập ở Mục 2 của bài viết, hiện nay một số nước trên thế giới xác lập hiệu lực của luật hình sự dựa trên nguyên tắc an ninh quốc gia. Nguyên tắc này cho phép quốc gia xác lập và thực hiện quyền tài phán về hình sự khi hành vi phạm tội xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia nhưng hướng đến xâm hại lợi ích của quốc gia. Trong bối cảnh phức tạp hiện nay, chúng ta nên dự liệu và xây dựng cơ sở pháp lý cho phép Việt Nam thực hiện quyền tài phán đối với những hành vi như vậy. Vì thế, chúng tôi cũng đề xuất đến các nhà làm luật xem xét việc mở rộng hiệu lực của BLHS Việt Nam trên nguyên tắc này.
Thứ năm, quy định về vấn đề không xét xử hai lần đối với cùng một hành vi phạm tội thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Cụ thể hóa quy định tại khoản 3 Điều 31 Hiến pháp về việc không ai bị xét xử hai lần vì cùng một hành vi phạm tội, BLHS nước ta nên quy định trường hợp tội phạm thực hiện ở ngoài lãnh thổ Việt Nam và đã bị xét xử bởi nước sở tại, thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo BLHS Việt Nam. Tuy nhiên, trong trường hợp việc xét xử của nước sở tại chỉ nhằm mục đích bảo vệ cho người phạm tội khỏi phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc việc xét xử không được tiến hành một cách độc lập hoặc khách quan, thì người phạm tội vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS Việt Nam./.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung 2009)”
- Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Hình sự 1999 theo Công ước về chống tra tấn 1984 – ThS. Nguyễn Thị Ánh Hồng
- Kiến nghị bổ sung quy định về nơi thực hiện tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1999 – ThS. Vũ Thị Thúy
CHÚ THÍCH
* TS Luật học, Phó trưởng Khoa Luật Hình sự, Phó Giám đốc Trung tâm Quyền con người và quyền công dân, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] .Xem Adelheid Puttler, ‘Extraterritorial Application of Criminal Law: Jurisdiction to Prosecute Drug Traffic Conducted by Aliens Abroad’ in Karl M. Meessen (chủ biên), Extraterritorial Jurisdiction in Theory and Practice(1996) 103, Nxb. Martinus Nijhoff, tr. 106; Division of Narcotic Drugs, Extradition for Drug-Related Offenses – A Study of Existing Extradition Practices and Suggested Guidelines for Use in Concluding Extradition Treaties(1985), Nxb. New York: United Nations, tr. 59; Cherif M Bassiouni, International Extradition and World Public Order(1974), Nxb. Sitjhoff-Ocean Publications, tr. 205; Cherif M Bassiouni, International Extradition: United States Law and Practice(Tái bản lần thứ 4, 2002), Nxb. Oceana Publications, tr. 316.
[2] Nguyên tắc này đặc biệt được áp dụng rộng rãi bởi các nước trong gia đình luật Châu Âu lục địa (Civil law family) để làm căn cứ xác lập quyền tài phán hình sự. Các nưn tắc này đặc biệt được áp dụng rộng rãi bởi các nước trong gia đình luật Châu Âu lục địa (Civil law family) để làm căn cứ xác lập quyền tài phán hình sự. Xem Bassiouni, International Extradition and World Public Order, chú thích số 1, tr. 251. Xem Division of Narcotic Drugs, chú thích số 1, tr. 60. United Nations, Commentary on the United Nations Convention against Illicit Traffic in Narcotic Drugs and Psychotropic Substances 1988: Done at Vienna on 20 December 1988(1998), Nxb. New York: United Nations, tr. 108.
[3] Xem Bassiouni, International Extradition and World Public Order, chú thích số 1, tr. 251; 1988 UN Commentary, chú thích số 1, tr. 108. Xem Điều 12(1) BLHS Liên bang Nga, Điều 6(2) BLHS Việt Nam.
[4] Xem Điều 113-7 BLHS Pháp, Điều 8 BLHS Trung Quốc, Điều 7(1) BLHS Đức.
[5] Xem Neil Boister, Penal Aspects of the UN Drug Conventions(2001), Nxb. Kluwer Law International, tr. 244 – 5.
[6] Xem Điều 113-10 BLHS Pháp, Điều 5 BLHS Đức, Điều 8 BLHS Trung Quốc, Điều 12 (3) BLHS Nga và Điều 3 (4) BLHS Thụy Điển.
[7] William C Gilmore, Combating International Drugs Trafficking: The 1988 United Nations Convention Against Illicit Traffic in Narcotic Drugs and Psychotropic Substances(1991), Nxb.Commonwealth Secretariat, tr. 10.
[8] Xem Trần Thị Quang Vinh (Chủ biên, 2012), Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr. 44.
[9] Xem Điều 56 Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 (Convention on the Law of the Sea of 10/12/1982).
[10] Xem Điều 3(1) Công ước về trấn áp các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng hải năm 1988 (Convention for the suppression of unlawful acts against the safety of maritime navigation of 10 March 1988).
[11] Xem Điều 5 và 6(1) Công ước về trấn áp các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng hải năm 1988.
[12] Xem Điều 3(1) Công ước về tội phạm và các hành vi bất hợp pháp thực hiện trên tàu bay năm 1963 (Convention on offences and certain other acts committed on board aircraft of 14 September 1963).
[13] Xem Điều 3(2) Công ước về tội phạm và các hành vi bất hợp pháp thực hiện trên tàu bay năm 1963.
[14] Điều 4(1)(a) Công ước trấn áp các hành vi chiếm đoạt trái phép tàu bay năm 1970 (Convention for the Suppression of Unlawful Seizure of Aircraft of 16 December 1970).
[15] Xem Điều 8(1)(b) Công ước trấn áp các hành vi bất hợp pháp liên quan đến an toàn hàng không quốc tế năm 2010 (Convention on the suppression of unlawful acts relating to the international civil aviation of 10 September 2010).
[16] Xem Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên, 2010), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập 1), Nxb. Công an nhân dân, tr. 36; Trần Thị Quang Vinh (Chủ biên, 2012), chú thích số 8, tr. 44; Trần Thị Quang Vinh và Vũ Thị Thúy (2008), Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb. Trẻ, tr. 38 – 9.
[17] Xem khoản 3 Điều 31 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
[18] Trong khoa học luật hình sự thế giới, đây là vấn đề “double jeopardy” (tạm dịch là quyền không bị truy cứu hai lần vì cùng một hành vi phạm tội). Đối với các hành vi phạm tội trong phạm vi lãnh thổ, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 của nước ta đã quy định rõ là không xét xử hai lần về cùng một hành vi ở các điều khoản sau: khoản 4 Điều 107 (Những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự) Chương VIII (Khởi tố vụ án hình sự); Điểm a khoản 2 Điều 164 (Đình chỉ điều tra) Chương XIV (Tạm đình chỉ điều tra và kết thúc điều tra); khoản 1 Điều 169 (Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án) Chương XV (Quyết định việc truy tố); Điều 180 (Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án) Chương XVIII (Chuẩn bị xét xử); và Điều 251 (Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án) Chương XXIV (Thủ tục xét xử phúc thẩm).
[19] Xem Điều 13 BLHS Trung Quốc.
[20] Xem Điều 5 BLHS Nhật Bản
[21] Xem Điều 5a Chương 2 BLHS Thụy Điển. Ngoài ra, BLHS Thụy Điển cũng cho phép truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội đã bị nước sở tại xét xử nếu có lệnh của Chính phủ hoặc người được Chính phủ ủy quyền.
[22] Việt Nam đã phê chuẩn Công ước này vào ngày 24/9/1982.
[23] Xem Điều 20(3) (Ne bis in idem) Phần II của Quy chế Tòa án hình sự quốc tế thường trực LaHaye năm 1998.
[24] Ví dụ: Điều 9(2) BLHS Liên bang Nga, Điều 113(2) BLHS Pháp, Điều 9 BLHS Đức, Điều 4 BLHS Thụy Điển.
Like fanpage Luật sư Online: https://www.facebook.com/iluatsu/
Tác giả: Nguyễn Thị Phương Hoa* – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03/2014 (82)/2014 – 2014, Trang 24-32
Trả lời