Mục lục
Một số đề xuất hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật Hình sự 2015
Xem thêm bài viết về “Quyền sở hữu”
- Căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác định được chủ sở hữu – ThS. Châu Thị Vân
- Vấn đề quyền sở hữu đối với nhà chung cư – ThS. Lê Văn Hiển
TÓM TẮT
Nghiên cứu các quy định về Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 cho thấy, quy định về một số tội phạm của chương này còn có nhiều thiếu sót, bất cập. Hậu quả của thiếu sót, bất cập này làm cho việc nhận thức, áp dụng các quy định về các tội xâm phạm sở hữu gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng hoặc thậm chí hình sự hóa (tội phạm hóa) các quan hệ dân sự, kinh tế. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều thuộc Chương XVI – Các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015 và dự kiến có hiệu lực vào ngày 01/7/2016. Tuy nhiên, do có nhiều sai sót, ngày 29/06/2016 Quốc hội ra Nghị quyết số 144/2016/QH13 về việc lùi hiệu lực thi hành BLHS. Hiện nay, Ban soạn thảo (Bộ Tư pháp chủ trì) đã xây dựng và công bố Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 để lấy ý kiến Nhân dân.
Qua nghiên cứu các quy định tại Chương XVI Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS năm 2015 và Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015, chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau và cần trao đổi để có sự thống nhất, qua đó đóng góp cho Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 được tốt hơn. Trong bài viết, tác giả đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều thuộc Chương XVI Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS năm 2015.
1. Về dấu hiệu định tội của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175)
Trong cấu thành cơ bản của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, BLHS năm 2015 đã thêm dấu hiệu “hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” vào điểm a khoản 1 Điều 175 và Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015[1](Dự thảo) vẫn giữ nguyên quy định này. Với quy định như vậy, BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi xử lý hình sự (tội phạm hóa) đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản so với quy định của BLHS năm 1999. Việc bổ sung quy định này gây khó khăn trong việc phân biệt giữa hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với hành vi vi phạm hợp đồng dân sự, kinh tế trong trường hợp vi phạm về thời hạn thanh toán. Ví dụ: theo quy định tại Điều 375 Bộ luật Dân sự năm 2015 về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền:
“1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.”
Hoặc Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 quy định về Quyền yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán:
“Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Như vậy, khi đưa dấu hiệu “hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” vào trong cấu thành cơ bản của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS năm 2015) thì nhà làm luật đã tội phạm hóa các quan hệ pháp luật dân sự, thương mại. Bởi lẽ, trong các trường hợp vi phạm về thời hạn thanh toán trong quan hệ pháp luật dân sự, thương mại nêu trên, người vi phạm hợp đồng hoàn toàn có đủ khả năng, điều kiện để thanh toán nhưng họ chưa trả và chấp nhận phạt hợp đồng để vì tính toán lợi ích kinh tế cao hơn.
Trên thực tế, có nhiều trường hợp chủ thể chấp nhận phạt hợp đồng này để tránh bị phạt một hợp đồng khác cao hơn, để giữ một khách hàng quan trọng đối với doanh nghiệp, để nhanh chóng có tiền để thực hiện một hoạt động kinh doanh có lợi nhuận cao hơn số tiền bị phạt; hoặc nếu trả lại tiền vay ngân hàng nhưng chưa chắc ngân hàng cho vay lại thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn; hoặc chấp nhận mất tài sản đã thế chấp… Những điều này thường xảy ra trong thực tế khi các chủ thể kinh doanh chiếm dụng vốn của nhau hoặc khi họ vi phạm hợp đồng tín dụng… Tuy nhiên, đối chiếu với các quy định của Điều 175 BLHS năm 2015, các hành vi vi phạm hợp đồng dân sự, thương mại nêu trên đều có thể bị xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Điều này là không hợp lý.
Về mặt lý luận, hành vi chiếm đoạt tài sản có đặc điểm là phải làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản mất khả năng thực tế thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với một tài sản cụ thể, đồng thời làm cho người chiếm đoạt có các quyền này. Đối chiếu với hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”thì hành vi này không làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản mất khả năng thực tế thực hiện quyền định đoạt đối với một tài sản cụ thể. Bởi lẽ, họ hoàn toàn có thể bằng các biện pháp giải quyết tranh chấp theo luật dân sự, thương mại… lấy lại được tài sản. Các quy định của pháp luật hiện hành cũng đảm bảo cho việc thực thi kết quả giải quyết tranh chấp để lấy lại tài sản cho họ (chẳng hạn, hành vi không chấp hành bản án của tòa án có thể bị xử lý hình sự về Tội không chấp hành án …). Điều đó cũng có nghĩa là hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”không phải là hành vi chiếm đoạt tài sản. Do đó, nó không thể được quy định là dấu hiệu định tội của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một trong bảy hình thức chiếm đoạt tài sản). Nói cách khác, việc quy định trường hợp này là tội phạm là trái với bản chất của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; không phân biệt được tội này với các hành vi vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế.
Ngoài ra, việc hình sự hóa các quan hệ pháp luật dân sự kinh tế này sẽ dẫn đến các hậu quả xấu cho xã hội như: (1) tạo rủi ro về mặt pháp lý hình sự cho các chủ thể kinh doanh, dẫn đến tình trạng họ không yên tâm kinh doanh; (2) dễ bị lạm dụng trên thực tế khi cơ quan tiến hành tố tụng xem xét một hành vi vi phạm pháp dân sự, thương mại có bị coi là tội phạm hay không và có khả năng các cơ quan này sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp. Chẳng hạn, chỉ cần cơ quan tiến hành tố tụng mời lên làm việc xét một trường hợp vi phạm hợp đồng kinh tế, dân sự về thời gian thanh toán có phải hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay không cũng đã gây tâm lý bất ổn cho các chủ doanh nghiệp. Trong khi nếu không có quy định này, cơ quan tiến hành tố tụng có thể ngay từ đầu kết luận ngay đây chỉ là các quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế. Những hậu quả xấu như trên đã đi ngược với chủ trương khuyến khích sự tự do kinh doanh của Đảng và Nhà nước, đi ngược với chủ trương không hình sự hóa (tội phạm hóa) hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế mà Chính phủ đã đề ra.
Tóm lại, với các lập luận nêu trên, chúng tôi kiến nghị bỏ dấu hiệu “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” trong tội lạm dụng tín nhiệm tài sản tại Điều 175 BLHS năm 2015 và Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015. Điều này có nghĩa là giữ nguyên dấu hiệu định tội của tội lạm dụng tín chiếm đoạt tài sản như quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Cụ thể là, điểm a khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản sửa lại là:“a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;”
Xem thêm bài viết về “Xâm phạm”
- Bình luận bản án: Bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ – ThS. Nguyễn Phương Thảo
- Thực thi cam kết trong khuôn khổ hiệp định CPTPP về xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ – ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
- Quy định mới về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự 2015 – PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về xác định hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu qua một số vụ tranh chấp – TS. Nguyễn Hải An & ThS. Dương Anh Sơn
2. Về tài sản đặc biệt là dấu hiệu định tội trong một số tội xâm phạm sở hữu
BLHS năm 2015 quy định dấu hiệu định tội trong trường hợp đối tượng tác động là tài sản đặc biệt là các dấu hiệu định tội là “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”,“tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” tại các tội: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172), Tội trộm cắp tài sản (Điều 173), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175), Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178). Quy định này sẽ gây khó khăn trong việc xác định một tài sản nào đó là “phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” hoặc tài sản là “kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại”. Ngoài ra, quy định này có thể dẫn đến sự tùy tiện khi áp dụng BLHS năm 2015; không đảm bảo yêu cầu của nguyên tắc thượng tôn pháp luật trong việc quy định và áp dụng các quy định của pháp luật hình sự. Trong trường hợp người phạm tội có sự sai lầm hoặc không thể biết được giá trị tinh thần của tài sản đối với bị hại mà áp dụng tình tiết này thì có hợp lý không? Tham khảo quy định của pháp luật hình sự các nước về các tội xâm phạm sở hữu như BLHS Liên bang Nga,[2]BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,[3]chúng tôi nhận thấy không luật nước nào có quy định tương tự như các điều luật trên trong BLHS năm 2015.
Theo chúng tôi, việc quy định các loại tài sản trên là dấu hiệu định tội trong một số tội xâm phạm sở hữu là không hợp lý, bởi các lý do sau:
(i) Thứ nhất, quy định này mâu thuẫn với lý luận và quy định của BLHS (tội phạm là hành vi nguy hiểm đối với xã hội); mâu thuẫn với bản chất của các tội xâm phạm sở hữu
Về mặt lý luận, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội (chứ không phải nguy hiểm cho bị hại). Thông thường, hành vi nguy hiểm cho bị hại thì cũng nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, có một số hành vi được một cá nhân, tổ chức đánh giá là nguy hiểm cho họ, nhưng lại không nguy hiểm cho xã hội. Chính vì vậy, Điều 8 BLHS năm 2105 quy định về khái niệm tội phạm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự…”
Chúng ta quy định một hành vi xâm phạm sở hữu là tội phạm trong BLHS bởi hai lý do: (1) hành vi xâm phạm sở hữu đến một mức độ đáng kể để xử lý bằng biện pháp hình sự; (2) hành vi đó nếu xử lý bằng các biện pháp hành chính, dân sự… sẽ không có hiệu quả do người có hành vi xâm phạm sở hữu có nhân thân xấu (đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm, có án tích mà còn vi phạm…).
Về mặt xã hội, các loại “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” hoặc “tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” đều là tài sản như các loại tài sản khác có thể quy đổi về một trị giá bằng tiền, không phân biệt tiền của người này có giá trị hơn hay tiền của người khác có giá trị hơn. Đây là đặc điểm chung của nền kinh tế hàng hóa, tính bình đẳng trong quan hệ xã hội của nền kinh tế hàng hóa.
Do vậy, đối với “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” hoặc “tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại”,về quyền sở hữu bị xâm phạm là như nhau đối với mọi người dưới góc độ xã hội. Tuy nhiên, về mặt cá nhân, hành vi trên trong chừng mực nào đó có thể gây thiệt hại tinh thần cho từng cá nhân sở hữu tài sản với các mức độ ảnh hưởng về tinh thần là khác nhau và điều này có thể làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Tuy nhiên, về mặt xã hội, nó không thể làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội như nhau để trở thành dấu hiệu định tội, bởi lẽ nếu được quy định là dấu hiệu định tội thì trong mọi trường hợp nó đều phải làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội.
Ví dụ: Một người hành nghề xe ôm có chiếc xe gắn máy làm phương tiện kiếm sống chính, khi bị trộm cắp xe gắn máy trị giá dưới 2 triệu đồng (xe Trung Quốc đã sử dụng lâu ngày nên giá trị xe được định giá dưới 2 triệu đồng) thì anh ta có thể thay thế bằng một chiếc xe gắn máy khác bằng tiền của mình dành dụm hoặc vay mượn người khác. Đối với anh ta, việc mất trộm xe máy cũng như việc mất trộm tài sản dưới 2 triệu đồng khác. Hoặc một ông chủ chuyên nghề cho thuê xe dưới 2 triệu đồng (xe xích lô, xe ba gác …) thì việc mất trộm một chiếc xe là “phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” không có ý nghĩa gì quá lớn đối với anh ta về mặt sở hữu. Hoặc khi một chiếc nhẫn cưới (kỷ vật- trị giá dưới 2 triệu đồng) bị trộm cắp thì mỗi người có ảnh hưởng tinh thần khác nhau, có người cho là bị tổn thất tinh thần nghiêm trọng, có người cảm thấy giống như mất các tài sản có trị giá dưới 2 triệu đồng khác.
Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, người phạm tội không thể biết được ý nghĩa tinh thần của tài sản đối với bị hại. Ví dụ: người phạm tội trộm cắp tài sản không có khả năng biết được một chiếc nhẫn nào đó là kỷ vật, di vật “có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại”. Nếu họ không buộc phải biết hoặc không thể biết được tài sản “có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” thì không thể buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự về dấu hiệu này. Họ chỉ có thể nhận biết hành vi của mình là xâm phạm quyền sở hữu của người khác và nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, Nhà nước không thể bắt họ phải biết và chịu trách nhiệm về “giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại”.
Các lập luận trên cho thấy, việc quy định các loại “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” hoặc “tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” là dấu hiệu định tội không phù hợp với nguyên tắc tội phạm là hành vi nguy hiểm đối với xã hội và mâu thuẫn với bản chất của các tội xâm phạm sở hữu.
(ii) Thứ hai, việc quy định các loại tài sản trên là dấu hiệu định tội sẽ khó chứng minh về mặt tố tụng, dễ bị lạm dụng trên thực tế
Một trong các yêu cầu của tội phạm hóa là các dấu hiệu của tội phạm phải có thể chứng minh được về mặt tố tụng. Tuy nhiên, khi quy định các loại “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” hoặc “tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” thì rất khó có thể chứng minh một loại tài sản có phải là “phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” hay không? Hoặc là “có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” hay không?
Việc chứng minh được một kỷ vật, di vật là “có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” là rất khó khăn. Chẳng hạn, có thể trong giai đoạn điều tra – bị hại khai rằng kỷ vật, di vật đó “có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” nhưng tại giai đoạn xét xử, bị hại này hoàn toàn có thể thay đổi kỷ vật, di vật đó lúc này không “có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại”. Do đó, việc hoàn toàn dựa vào ý chí chủ quan của bị hại đối với tài sản làm chứng cứ là cực kỳ rủi ro, dễ thay đổi theo thời gian và khó chứng minh về mặt tố tụng.
Bên cạnh đó, việc coi một hành vi xâm phạm sở hữu nào đó là tội phạm hay không hoàn toàn dựa vào ý chí chủ quan của bị hại đối với tài sản là không làm rõ ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội phạm, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc thượng tôn pháp luật.
Về mặt thực tế, quy định trên cũng dễ bị lạm dụng và tạo ra các rủi ro cho người có hành vi chiếm đoạt tài sản vì cơ quan tiến hành tố tụng coi người nào đó có hành vi xâm phạm sở hữu có phạm tội hay không bằng cách tác động vào lời khai của bị hại là tài sản đó có phải là “phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” hoặc “có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” hay không. Điều này rất nguy hiểm cho xã hội vì nó không đảm bảo sự an toàn về mặt pháp lý cho một số cá nhân có hành vi chiếm đoạt tài sản dưới hai triệu đồng.
(iii) Thứ ba, mâu thuẫn với quy định về các tội phạm khác trong Chương Các tội phạm xâm phạm sở hữu, Các tội phạm về chức vụ
Dấu hiệu định tội là “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” chỉ được quy định là dấu hiệu định tội trong một số tội xâm phạm sở hữu như: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172); Tội trộm cắp tài sản (Điều 173); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174); Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175); Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178) cho nên nó không đồng bộ với các tội phạm khác trong chương các tội xâm phạm sở hữu và các tội phạm có tính chất chiếm đoạt trong chương các tội phạm về chức vụ. Cụ thể, về mâu thuẫn trong chương các tội xâm phạm sở hữu: dấu hiệu định tội “tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại”không có tương ứng trong Điều 175 (Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản). Về mâu thuẫn với các tội phạm có tính chất chiếm đoạt trong chương các tội phạm về chức vụ: Dấu hiệu định tội “Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” không được quy định đồng bộ trong Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355)[4] mặc dù tội này đều có thể được thực hiện bằng hình thức cưỡng đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Tóm lại, với các lập luận nêu trên, chúng tôi kiến nghị bỏ dấu hiệu định tội: “Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại” tại các tội: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172); Tội trộm cắp tài sản (Điều 173); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174); Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175); Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178).
3. Về các dấu hiệu định tội tiếp tục được sử dụng làm tình tiết định khung tăng nặng trong một số tội xâm phạm sở hữu
BLHS năm 2015 đã quy định một loạt dấu hiệu định tội thành dấu hiệu định khung trong trường hợp tài sản bị xâm phạm dưới định khung nhưng có các dấu hiệu định tội này. Cụ thể, các dấu hiệu: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171… của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại một mặt được nhà làm luật sử dụng làm dấu hiệu định tội, mặt khác là dấu hiệu định khung tăng nặng trong trường hợp tài sản bị xâm phạm dưới định lượng của khung ở các khoản 2, 3,4 các tội: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172); Tội trộm cắp tài sản (Điều 173); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174); Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178).
Chẳng hạn: điểm e khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015 quy định: “Trộm cắp tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này” có nghĩa là các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 173 (dấu hiệu định tội) có thể được sử dụng làm dấu hiệu định khung ở khoản 2 Điều 173 thay vì chỉ bị xử lý ở khoản 1 Điều 173 nếu không có những tình tiết này. Về kỹ thuật lập pháp, đây là sự kế thừa quy định của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104 BLHS năm 1999) để tránh lặp lại các tình tiết định khung tăng nặng làm cho điều luật cồng kềnh. Tuy nhiên, việc quy định các tình tiết định khung tăng nặng này có phản ánh đúng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội không, có trùng lắp hoặc mâu thuẫn với các tình tiết định khung, định tội khác không? Tác giả cho rằng quy định này không hợp lý, bởi các lẽ sau:
– Thứ nhất, không đúng với các giá trị tính nguy hiểm của của các tình tiết này
Khảo sát độ tăng mức hình phạt của các tình tiết này trong các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong BLHS năm 2015, chúng tôi nhận thấy các tình tiết này đã làm tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội lên đến mức thấp nhất là 4 năm tù (so sánh mức hình phạt giữa khoản 2 và khoản 1 các tội nêu trên) và cao nhất là đến 10 năm tù (giữa khoản 4 và khoản 3 Điều 178). Vậy các tình tiết nêu trên có thật sự có giá trị làm tăng tính nguy hiểm thể hiện qua độ tăng mức hình phạt từ 4 năm tù đến 10 năm tù hay không?
Việc nhà làm luật quy định các tình tiết nêu trên làm dấu hiệu định tội (khoản 1 các điều luật) khi tài sản bị xâm phạm dưới định lượng (2 triệu đồng) thì kết hợp với các tình tiết này mới nguy hiểm đáng kể cho xã hội; hoặc khi các biện pháp xử lý khác không có hiệu quả đối với người có nhân thân xấu (đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm, chưa được xóa án tích) thì cần phải áp dụng biện pháp hình sự. Tuy nhiên, các tình tiết này không có cơ sở về tính nguy hiểm để chuyển khung hình phạt từ khoản này sang khoản khác như quy định tại các điều luật nêu trên. Chẳng hạn, các tình tiết: (1) đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; (2) đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều… của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm không có giá trị làm tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội lên đến mức 4 năm tù (thấp nhất) hoặc đến 10 năm tù (cao nhất). Nói cách khác, việc quy định các tình tiết này làm tình tiết định khung khi kết hợp với giá trị tài sản dưới mức định lượng của khung là không có cơ sở về tính nguy hiểm cho xã hội, không hợp lý.
– Thứ hai, việc quy định các tình tiết này dẫn đến mâu thuẫn nội tại giữa các khung trong một điều luật.
Chẳng hạn, tại khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015 (Tội trộm cắp tài sản) nếu chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng (điểm c) và có cả tình tiết tái phạm nguy hiểm (điểm g) thì chỉ bị xử lý ở khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015.[5]Tuy nhiên, khi đã tái phạm nguy hiểm (ví dụ người này đã có án tích nhưng chưa được xóa) thì lại có thể thỏa mãn dấu hiệu ở điểm b khoản 3 Điều 173 BLHS năm 2015. Trong trường hợp này, nếu áp dụng khoản 3 Điều 173 BLHS năm 2015 thì không hợp lý vì tình tiết “tái phạm nguy hiểm” lúc này lại có giá trị làm tăng tính nguy hiểm thấp hơn các tình tiết xấu về nhân thân như: (1) đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; (2) đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
– Thứ ba, việc quy định các tình tiết này dẫn đến mâu thuẫn nội tại giữa các điều luật trong Chương Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS năm 2015
Do các tình tiết nêu trên chỉ quy định cho một số tội xâm phạm sở hữu như Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172), Tội trộm cắp tài sản (Điều 173), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174), Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178) mà không quy định cho các tội xâm phạm sở hữu khác như Tội cướp tài sản (Điều 168), Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169), Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170), Tội cướp giật tài sản (Điều 171), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175)… cho nên chắc chắn dẫn đến sự không đồng bộ giữa các điều luật trong chương các tội xâm phạm sở hữu.
Chẳng hạn, cưỡng đoạt tài sản có trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng dù thêm các tình tiết (1) đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; (2) đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; (3) gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; (4) tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại thì cũng bị xử lý ở khoản 2 Điều 170 BLHS năm 2015 có khung hình phạt tù tử 3 năm đến 10 năm.Tuy nhiên, nếu trộm cắp tài sản có trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng mà kết hợp với các tình tiết nêu trên thì bị xử lý ở khoản 3 Điều 173 BLHS năm 2015 có khung hình phạt tù từ 7 năm đến 15 năm, có nghĩa là nghiêm khắc hơn so với tội cưỡng đoạt tài sản, cho dù tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170 BLHS năm 2015) có tính chất nguy hiểm cao hơn tội trộm cắp tài sản.
Trên cơ sở các lập luận nêu trên, chúng tôi đề xuất bỏ các tình tiết: a) đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại khi kết hợp với các định lượng tài sản làm tình tiết định khung hoặc chuyển sang khung cao hơn ở các khoản 2, 3, 4 các Điều 172, 173, 174, 178 BLHS năm 2015. Đồng thời quy định tình tiết “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”là tình tiết định khung ở khoản 2 các Điều 172, 173, 174, 178 BLHS năm 2015 cho đồng bộ với các tội xâm phạm sở hữu khác.
Đối với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS năm 2015), nhà làm luật nên chuyển dấu hiệu định khung “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” từ khoản 3 sang khoản 2 cho đồng bộ với các điều luật trong Chương Các tội xâm phạm sở hữu. Việc quy định dấu hiệu định khung này ở khoản 3 Điều 175 BLHS năm 2015 là không có cơ sở vì trong các tội phạm xâm phạm sở hữu khác như Tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS năm 2015), Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169), Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170 BLHS năm 2015)… thì dấu hiệu “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” được quy định ở khoản 2 của các điều luật tương ứng. Tuy nhiên, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản lại quy định tình tiết định khung tăng nặng này ở khoản 3 Điều 175 BLHS năm 2015. Trong khi tội cướp giật tài sản có tính nguy hiểm cao hơn tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì hình phạt được BLHS quy định đối với người phạm tội cướp giật tài sản có trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng và “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” (khoản 2 Điều 171 BLHS năm 2015 quy định khung hình phạt tù từ 3 năm đến 10 năm) lại nhẹ hơn hình phạt được BLHS quy định đối với người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có hai các dấu hiệu trên (khoản 3 Điều 175 BLHS năm 2015 quy định khung hình phạt tù từ 5 năm đến 12 năm)./.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017)”
- Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt theo quy định Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi bị kết án theo Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Xóa án tích theo quyết định của Tòa án theo quy định Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Bàn về các biện pháp thay thế xử lý hình sự áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong Dự thảo Bộ luật Hình sự 2015 (Xử lý chuyển hướng) – TS. Phan Anh Tuấn
- Một số vấn đề pháp lý về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – TS. Trần Ngọc Lan Trang & ThS. Nguyễn Phương Thảo
CHÚ THÍCH
* TS. Luật học, Trưởng Bộ môn Luật Hình sự, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015:
“13. Sửa đổi,bổ sung điểm a khoản 1 Điều 175 như sau:
1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốnđể chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”.
Như vậy, Dự thảo đã bổ sung thêm cụm từ “hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó” vào điểm a khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015. Cụm từ này không mới mà thực tế đã được quy định trong BLHS năm 1999 về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
[2] Trường Đại học Luật Hà Nội (dịch), Bộ luật hình sự Liên bang Nga, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011.
[3] Đinh Bích Hà (dịch), Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007.
[4] Điều 355. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
“1. Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 06 năm:
a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
[5] Điều 173. Tội trộm cắp tài sản
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
e) Trộm cắp tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này”.
Tác giả: TS. Phan Anh Tuấn*
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08/2016 (102)/2016 – 2016, Trang 48-55
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời