Mục lục
Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về hình phạt trục xuất
Tác giả: Hoàng Minh Đức [1] Nguyễn Phan Trung Anh [2]
TÓM TẮT
Trục xuất là một trong các loại hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS), có ý nghĩa lý luận, chính trị, pháp lý và thực tiễn quan trọng đối với sự phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng, cũng như thực tiễn áp dụng hình phạt nói chung. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu, luận giải những vấn đề có liên quan đến hình phạt trục xuất, phân tích những điểm bất cập còn tồn tại trong các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và thực tiễn thi hành hình phạt này, từ đó đề xuất một số định hướng, kiến nghị hoàn thiện.
Những năm qua, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác đối ngoại, hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn, vị thế ngày càng được củng cố và tăng cường trên trường quốc tế. Mặc dù vậy, những mặt trái phát sinh từ quá trình hội nhập cũng không ít. Đặc biệt, quá trình giao lưu, hợp tác giữa Việt Nam và các nước đã tạo thời cơ thuận lợi cho các loại tội phạm nói chung, tội phạm mang tính xuyên quốc gia, tội phạm hình sự quốc tế có xu hướng ngày càng gia tăng. Nhằm thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của Nhân dân, Nhà nước dùng nhiều biện pháp vừa có tính thuyết phục, vừa có tính cưỡng chế, trong đó phải kể đến hiệu quả của hệ thống hình phạt trong Luật hình sự.
Hệ thống hình phạt với tư cách là những chế tài xử lý đối với người phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự, bao gồm đa dạng các loại hình phạt, là cơ sở để Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng loại, mức hình phạt phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đảm bảo nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt. Trục xuất là một trong các loại hình phạt được quy định trong BLHS, có ý nghĩa lý luận, chính trị, pháp lý và thực tiễn quan trọng đối với sự phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng, cũng như thực tiễn áp dụng hình phạt nói chung, đặc biệt trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam trước tình hình phát triển của xã hội với xu thế hội nhập và mở cửa, giao lưu và hợp tác quốc tế.
1. Hình phạt trục xuất theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Thứ nhất, về điều kiện áp dụng, phạm vi áp dụng và mức độ nghiêm khắc của hình phạt trục xuất.
Điều 37 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “Trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”3. Như vậy, với tính chất là một hình phạt chính, trục xuất là hình phạt nghiêm khắc hơn hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ vì trong trường hợp bị áp dụng hình phạt trục xuất người bị kết án không còn khả năng sinh sống và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam, nhưng trục xuất lại là hình phạt ít nghiêm khắc hơn hình phạt tù có thời hạn vì trong trường hợp bị áp dụng hình phạt trục xuất người bị kết án không bị cách ly ra khỏi xã hội để giáo dục, cải tạo. Về đối tượng bị áp dụng hình phạt trục xuất, trục xuất là hình phạt chỉ được áp dụng đối với người nước ngoài bị kết án và theo quyết định của Tòa án nhân dân trong một thời hạn nhất định người bị kết án bắt buộc phải rời khỏi lãnh thổ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 thì: “Người nước ngoài là người mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam”. Như vậy có thể hiểu: Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch. Bên cạnh đó, theo Khoản 1 Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 thì: “Quốc tịch nước ngoài là quốc tịch của một nước khác không phải là quốc tịch Việt Nam”4. Theo Khoản 2 Điều này thì người không quốc tịch là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài. Như vậy, người nước ngoài là người mang quốc tịch của một nước khác hoặc người không mang quốc tịch của bất kỳ một nước nào (người không có quốc tịch). Tuy nhiên, ở đây cũng có một trường hợp ngoại lệ, trục xuất sẽ không được áp dụng đối với người không có quốc tịch thường trú tại Việt Nam. Cụ thể với đối tượng này, Tòa án có thể áp dụng một trong các hình phạt chính khác căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Ngoài ra, không phải bất cứ người nước ngoài nào cũng đều bình đẳng như nhau khi bị xử lý bằng biện pháp hình sự, bởi theo Khoản 2 Điều 5 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì: “Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”5. Việc trục xuất người nước ngoài phạm tội thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự được giải quyết bằng con đường ngoại giao6.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án phạt trục xuất.
Người chấp hành án phạt trục xuất có quyền được cơ quan có thẩm quyền tống đạt quyết định thi hành án trong những trường hợp cụ thể theo quy định7.
Trong thời gian chờ xuất cảnh, người chấp hành án phải lưu trú tại nơi được cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh chỉ định. Đối với người chấp hành án phạt trục xuất mà không có nơi thường trú, tạm trú; nhập cảnh trái phép hoặc phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; tự ý rời khỏi nơi lưu trú được chỉ định hoặc không chấp hành các biện pháp quản lý, giám sát của cơ quan có thẩm quyền; có hành vi vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ cho rằng người đó có thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian chờ xuất cảnh; có hành vi bỏ trốn, chuẩn bị bỏ trốn hoặc hành vi khác gây khó khăn cho việc thi hành án phạt trục xuất; mắc bệnh truyền nhiễm nhóm A theo quy định của Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm; tự nguyện xin vào cơ sở lưu trú thì Cơ quan thi hành án hình sự (THAHS) Công an cấp tỉnh đưa người chấp hành án phạt trục xuất vào cơ sở lưu trú của Bộ Công an.
Người chấp hành án phạt trục xuất phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam khi đến thời hạn theo quy định và được mang theo tài sản hợp pháp của mình khi rời khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Người chấp hành án phạt trục xuất phải chịu chi phí vé máy bay, ô tô, tàu hỏa, tàu biển để rời khỏi lãnh thổ Việt Nam; trường hợp người chấp hành án phạt trục xuất không có khả năng tự chịu chi phí thì giải quyết theo quy định của pháp luật8.
Thứ ba, trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan thi hành án phạt trục xuất
Trường hợp ra quyết định thi hành án phạt trục xuất với tư cách là hình phạt chính hoặc là hình phạt bổ sung trong trường hợp hình phạt chính là phạt tiền, Tòa án phải gửi ngay quyết định cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh và Viện kiểm sát cùng cấp, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ sở. Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh phải tống đạt quyết định thi hành án cho người chấp hành án và thông báo ngay cho Bộ Ngoại giao Việt Nam, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước mà người đó mang quốc tịch hoặc cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế mà người đó làm việc, cơ quan, tổ chức đã bảo lãnh người đó vào Việt Nam. Trường hợp người chấp hành án đang bị tạm giam thì phải gửi quyết định này cho trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi đang tạm giam người đó để tống đạt cho người chấp hành án.
Trường hợp phạm nhân có hình phạt bổ sung là trục xuất thì 02 tháng trước khi hết thời hạn chấp hành án phạt tù, Giám thị trại giam phải thông báo bằng văn bản cho phạm nhân đó và cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh nơi trại giam đóng. Cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh phải thông báo cho Bộ Ngoại giao Việt Nam, cơ quan đại diện ngoại giao, cơn, tổ chức đã bảo lãnh người đó vào Việt Nam.
Cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh lập hồ sơ thi hành án phạt trục xuất. Trường hợp người chấp hành án đang tại ngoại thì cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh phải áp giải người chấp hành án đến cơ sở lưu trú; trường hợp người chấp hành án đang bị tạm giam thì sau khi nhận được quyết định thi hành án, trại tạm giam, cơ quan THAHS Công an cấp huyện nơi tạm giam phải giao người chấp hành án cho cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh để áp giải vào cơ sở lưu trú; khi phạm nhân có hình phạt bổ sung là trục xuất chấp hành xong án phạt tù thì trại giam phải giao người chấp hành án cho cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh để áp giải vào cơ sở lưu trú.
Trường hợp người chấp hành án chết trong thời gian chờ xuất cảnh thì cơ sở lưu trú hoặc nơi lưu trú được chỉ định phải báo ngay cho cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền để xác định nguyên nhân chết. Cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh phải thông báo bằng văn bản hoặc bằng fax cho Tòa án đã ra quyết định thi hành án phạt trục xuất, Bộ Ngoại giao Việt Nam, cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước mà người đó mang quốc tịch hoặc cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế mà người đó làm việc, cơ quan, tổ chức đã bảo lãnh người đó vào Việt Nam. Sau khi được cơ quan có thẩm quyền cho phép, cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức mai táng. Trường hợp thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của người chết đề nghị được nhận tử thi, tro cốt về mai táng và tự chịu chi phí thì cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh xem xét, giải quyết.
Trường hợp người chấp hành án bỏ trốn thì cơ sở lưu trú hoặc nơi lưu trú chỉ định phải lập biên bản và thông báo ngay cho cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh nơi có cơ sở lưu trú hoặc nơi lưu trú chỉ định. Cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh nhận được thông báo phải tổ chức truy bắt ngay. Trường hợp truy bắt không có kết quả thì trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày người chấp hành án bỏ trốn, cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh phải ra quyết định truy nã. Người chấp hành án bỏ trốn ra đầu thú thì cơ quan tiếp nhận lập biên bản và thông báo cho cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh đến nhận và đưa người đó vào cơ sở lưu trú.
Đến thời hạn người chấp hành án phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh phối hợp với cơ quan quản lý xuất nhập cảnh có thẩm quyền tiến hành kiểm tra căn cước của người chấp hành án phạt trục xuất và áp giải người đó đến địa điểm xuất cảnh và buộc rời khỏi lãnh thổ Việt Nam. Người chấp hành án phạt trục xuất được mang theo tài sản hợp pháp của mình khi rời khỏi lãnh thổ Việt Nam. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thi hành xong án phạt trục xuất, cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh phải thông báo việc thi hành án phạt trục xuất cho Tòa án đã ra quyết định thi hành án, Viện kiểm sát cùng cấp, Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia.
Người chấp hành án phạt trục xuất phải chịu chi phí vé máy bay, ô tô, tàu hỏa, tàu biển để rời khỏi lãnh thổ Việt Nam; trường hợp người chấp hành án phạt trục xuất không có khả năng tự chịu chi phí thì cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh phối hợp với cơ quan quản lý xuất nhập cảnh yêu cầu cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước mà người đó mang quốc tịch hoặc cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế mà người đó làm việc, cơ quan, tổ chức đã bảo lãnh người đó vào Việt Nam giải quyết kinh phí đưa người chấp hành án phạt trục xuất về nước; trường hợp đã yêu cầu mà cơ quan, tổ chức đó vẫn chưa giải quyết được kinh phí nhưng vì lý do an ninh quốc gia cần phải trục xuất ngay thì Thủ trưởng cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh báo cáo cơ quan quản lý THAHS thuộc Bộ Công an quyết định việc sử dụng ngân sách nhà nước chi trả vé máy bay, ô tô, tàu hỏa, tàu biển cho người chấp hành án phạt trục xuất.
2. Một số giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về hình phạt trục xuất
Dưới góc độ khoa học pháp lý, trên cơ sở tiếp thu công trình nghiên cứu của các nhà khoa học9, từ thực tiễn nhận thức và áp dụng hình phạt này trong thời gian qua, chúng tôi cho rằng hiện nay quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) về hình phạt trục xuất thể hiện rõ sự bất cập về mặt nội dung lẫn kỹ thuật lập pháp, cần phải được nghiên cứu để tiến hành sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với bối cảnh mới, cụ thể:
Một là, do tính chất phức tạp và nhạy cảm của việc xử lý các trường hợp người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, nên Nhà nước ta chủ yếu xử lý các trường hợp này thông qua con đường ngoại giao theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia hoặc theo thông lệ quốc tế. Mặt khác, Điều 37 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) không quy định điều kiện cụ thể để áp dụng hình phạt trục xuất, đồng thời cũng không quy định hình phạt này trong phần chế tài của bất cứ điều luật nào tại phần các tội phạm cụ thể. Điều đó có nghĩa, khi người nước ngoài phạm bất cứ một tội nào được quy định trong BLHS đều có thể bị áp dụng hình phạt này. Tuy nhiên, Điều 37 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “Trục xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể” là chưa bảo đảm nguyên tắc pháp chế, vì người phạm tội không phải chịu một hình phạt nào ngoài những hình phạt được quy định trong BLHS, đồng thời Tòa án cũng không được tuyên bất kỳ một hình phạt nào khi hình phạt đó chưa được quy định trong phần chế tài của điều luật tương ứng. Cho nên, chúng tôi cho rằng nhà làm luật cần quy định một cách rõ ràng và cụ thể hơn làm cơ sở cho việc nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật hình sự.
Hai là, theo quy định của BLHS, trục xuất là hình phạt bổ sung có thể được áp dụng kèm theo hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, tù có thời hạn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hình phạt trục xuất nếu được áp dụng kèm theo hình phạt tù có thời hạn thì không đạt được mục đích của hình phạt, bởi vì người bị kết án đã được áp dụng các biện pháp giáo dục, cải tạo tại cơ sở giam giữ. Ngoài ra, nếu trục xuất được áp dụng kèm theo hình phạt tiền, đồng nghĩa với việc người bị kết án phải chấp hành xong hình phạt tiền rồi mới tiếp tục chấp hành hình phạt bổ sung là trục xuất thì tính khẩn thiết, cấp bách của việc buộc người nước ngoài phạm tội rời khỏi lãnh thổ Việt Nam không còn nữa. Từ nhận thức đó, chúng tôi cho rằng, nhà làm luật nên quy định ngay tại Điều 37 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nội dung: “Trục xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính đối với người nước ngoài phạm tội mà Bộ luật này quy định. Trục xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người bị kết án cảnh cáo trong trường hợp do Bộ luật này quy định”.
Ba là, hiện nay xung quanh vấn đề người bị áp dụng hình phạt trục xuất có bị mang án tích hay không đang có nhiều quan điểm khác nhau. Đặc trưng quan trọng để phân biệt hình phạt và các hình thức trách nhiệm pháp lý khác ở chỗ, hình phạt để lại án tích cho người bị kết án trong một thời hạn nhất định. Với ý nghĩa đó, trục xuất sẽ để lại án tích cho người bị kết án. Tuy nhiên, ý kiến khác cho rằng, trục xuất không để lại án tích cho người bị kết án, bởi lẽ tại Điều 70 và 71 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về đương nhiên được xóa án tích và xóa án tích theo quyết định của Tòa án đều không đề cập đến việc xóa án tích đối với người bị áp dụng hình phạt trục xuất. Mặt khác, đối tượng bị áp dụng hình phạt trục xuất là người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, khi họ bị áp dụng hình phạt trục xuất về nước thì vấn đề án tích có lẽ không đặt ra cho nên hình phạt này mang tính chất một hình phạt không mang án tích. Chúng tôi cho rằng, để khắc phục sự thiếu thống nhất trong nhận thức cũng như khi áp dụng quy định về hình phạt trục xuất, nhà làm luật nên quy định Điều 70 BLHS về Đương nhiên xóa án tích theo hướng: “2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây: a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, phạt tù nhưng được hưởng án treo…”.
Bốn là, chúng tôi cho rằng, để đảm bảo tính chặt chẽ, thống nhất của quy định về hình phạt trục xuất, nhà làm luật cần chú ý đề cập đến các vấn đề như: Người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam bị áp dụng hình phạt trục xuất thì họ có được quay trở lại Việt Nam hay không và nếu có thì thời gian là bao lâu kể từ ngày bị trục xuất; trình tự, thủ tục, Tòa án cấp nào có thẩm quyền áp dụng, những tiêu chí cụ thể để áp dụng hình phạt này cần phải được quy định chi tiết hơn trong các văn bản hướng dẫn thi hành.
Tóm lại, trong phạm vi bài viết này chúng tôi đã kiến giải những vấn đề có liên quan đến hình phạt trục xuất, phân tích những điểm bất cập còn tồn tại trong các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và thực tiễn thi hành hình phạt này, từ đó đề xuất một số định hướng, kiến nghị hoàn thiện. Hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng sẽ phải thay đổi cho phù hợp với sự biến chuyển của tình hình mọi mặt đời sống chính trị, xã hội, đây chính là đòi hỏi tất yếu của mối quan hệ giữa một bên là pháp luật với tư cách một yếu tố của kiến trúc thượng tầng và các điều kiện kinh tế, xã hội thuộc về cơ sở hạ tầng. Với ý nghĩa đó, việc tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và bổ sung các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là vấn đề thực sự cần thiết nằm trong chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm tạo ra công cụ sắc bén trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác đảm bảo duy trì lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân hiện nay./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sỹ, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân.
- Thạc sỹ, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân.
- Điều 37 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Điều 3 Luật quốc tịch năm 2008.
- Điều 5 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Nghị định số 54/2001/NĐCP ngày 23/8/2001 của Chính phủ hướng dẫn thi hành hình phạt trục xuất.
- Xem: Điều 119 Luật THAHS năm 2019.
- Điều 124 Luật THAHS năm 2019.
- Trịnh Tiến Việt (2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (2020), Kỷ yếu hội thảo: Sơ kết 02 năm thi hành BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Thành phố Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Thị Phương Hoa – Phan Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học những điểm mới của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh.
- Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (2020), Kỷ yếu hội thảo: Sơ kết 02 năm thi hành BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, TP. Hồ Chí Minh.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Quyền con người trong Luật Quốc tế và pháp luật Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
- Trịnh Tiến Việt (2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trả lời