Hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy tại Việt Nam hiện nay
TÓM TẮT
Bài viết tập trung vào việc phân tích các nguyên nhân và điều kiện thuộc về pháp luật của tình hình các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy tại Việt Nam hiện nay và đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa các tội phạm này trên thực tế.
- Các tình huống phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy tại TP.HCM hiện nay và một số kiến nghị về phòng ngừa tội phạm – ThS. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh
- Hoàn thiện quy định của BLHS đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý các chất ma túy – PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa
- Tội phạm về ma túy theo các công ước của Liên Hợp Quốc về kiểm soát ma túy và BLHS Việt Nam: Nghiên cứu so sánh – PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa
TỪ KHÓA: Góp ý sửa đổi Luật, Phòng ngừa, Các tội phạm về ma túy, Luật hình sự phần các tội phạm, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam
Trong thời gian gần đây, tình hình các tội phạm về ma túy tại Việt Nam, trong đó có các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (được quy định Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999) ngày càng gia tăng về số vụ phạm tội, số người phạm tội cũng như tính chất nguy hiểm. Trong giai đoạn 2005 – 2014, trung bình mỗi năm Tòa án nhân dân các cấp trong cả nước đã xét xử 11.599 vụ phạm tội, 11.988 người phạm tội, chiếm khoảng 20% các vụ phạm tội và 22% người phạm tội đã qua xét xử trong tổng cơ cấu tình hình tội phạm nói chung.[1] Tình hình các tội phạm này xuất phát từ nhiều nguyên nhân và điều kiện khác nhau. Đó là những nguyên nhân và điều kiện thuộc về kinh tế xã hội, những nguyên nhân và điều kiện thuộc về văn hóa, giáo dục, những nguyên nhân và điều kiện thuộc về cơ chế quản lý xã hội, những nguyên nhân và điều kiện thuộc về các quy định của pháp luật. Chính vì vậy, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật là một trong các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng ngừa các tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy tại Việt Nam hiện nay.
1. Nguyên nhân và điều kiện thuộc về các quy định của pháp luật
Nguyên nhân và điều kiện từ các quy định của pháp luật được hiểu là sự không hoàn thiện, sự thiếu vắng các quy định của pháp luật có thể làm phát sinh hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất hiện, tồn tại các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, bởi lẽ quy định của pháp luật là căn cứ pháp lý để chủ thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Trong thời gian qua, theo chúng tôi, những nguyên nhân và điều kiện thuộc về các quy định của pháp luật có ảnh hưởng đến tình hình các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy tại Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, Việt Nam chậm trễ tham gia các Công ước của Liên hợp quốc và sự thiếu ổn định của pháp luật hình sự
Các công ước của Liên hợp quốc về kiểm soát chất ma túy như: Công ước thống nhất về Các chất ma túy, Công ước về Các chất hướng thần, Công ước về Chống buôn bán bất hợp pháp Các chất ma túy và các chất hướng thần đã được Liên hợp quốc thông qua lần lượt vào các năm 1961, 1971 và 1988 nhưng Việt Nam chỉ bắt đầu tham gia các công ước này từ ngày 1/9/1997. Sự tham gia chậm trễ này làm cho trong khoảng thời gian khá dài chúng ta chưa hòa nhập với cuộc đấu tranh phòng chống ma túy trên quy mô toàn thế giới, chưa nhận được sự hỗ trợ của Liên hợp quốc cũng như các quốc gia khác trong hoạt động phòng ngừa tội phạm về ma túy. Mặt khác, sự tham gia chậm trễ này g ảnh hưởng nhất định đến việc cụ thể hóa các hành vi phạm tội về ma túy tại Bộ luật Hình sự năm 1999, dẫn đến hạn chế trong việc trấn áp và phòng ngừa tội phạm. Cụ thể, trong một thời gian dài trước năm 1997, chúng ta chỉ xem hành vi buôn bán, vận chuyển ma túy là một dạng của hành vi buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Bộ luật Hình sự năm 1985 chỉ ghi nhận một tội danh riêng biệt về ma túy. Đó là tội “Tổ chức dùng chất ma túy” (Điều 203). Với lần sửa đổi thứ 4 Bộ luật Hình sự năm 1985 vào năm 1997 (năm mà Việt Nam gia nhập các công ước về kiểm soát ma túy), thì Bộ luật Hình sự năm 1985 mới quy định các tội phạm về ma túy thành một chương riêng. Bên cạnh đó, liên quan đến các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, pháp luật hình sự cũng nhiều lần thay đổi về việc tách, nhập các hành vi này trong cùng một điều luật như trong lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự 1985 năm 1991, các hành vi này được quy định trong cùng một điều luật (Điều 96a). Đến lần sửa đổi năm 1997, các hành vi này được tách thành từng điều luật riêng (Điều 185c, Điều 185d, Điều 185đ). Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự năm 1999 lại gộp hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép với nhau và bổ sung thêm tội chiếm đoạt chất ma túy thành Điều 194. Như vậy, trong một khoảng thời gian ngắn mà pháp luật hình sự liên quan đến các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy liên tục thay đổi đã ít nhiều gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc khởi tố, truy tố, định tội danh cũng như định khung hình phạt khi xét xử. Song song đó, xét ở góc độ nội luật hóa các công ước quốc tế, Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) đã có định nghĩa chất ma túy, chất gây nghiện và chất hướng thần tại Điều 2. Tuy nhiên, Danh mục các chất ma túy được quy định tại Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 lại không quy định rõ chất nào là chất gây nghiện, chất nào là chất hướng thần. Điều này chưa cho thấy sự “kết nối” giữa định nghĩa chất ma túy với danh mục các chất ma túy[2] và gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc giám định chất ma túy.
Thứ hai, sự thiếu vắng các quy định của pháp luật về phòng ngừa tội phạm nói chung và sự không hoàn thiện của pháp luật phòng, chống ma túy nói riêng liên quan đến chủ thể phòng ngừa tội phạm.
Theo quy định tại Điều 4 Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) thì phòng chống ma túy là trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và toàn xã hội. Điều 13 Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) cũng quy định: “Cơ quan phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Công an nhân dân”. Bên cạnh đó, từ Điều 6 đến Điều 12 của Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cá nhân, tổ chức trong hoạt động phòng, chống tội phạm. Với những quy định này có thể hiểu tất cả các cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội… đều là chủ thể của hoạt động phòng, chống ma túy, trong đó lực lượng Công an nhân dân giữ vai trò quan trọng. Tuy nhiên, các quy định nêu trên của Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) chưa xác định rõ chủ thể nào là chủ thể chuyên trách trong hoạt động ngăn ngừa trước không cho các tội phạm về ma túy xảy ra, tức là chủ thể giữ vai trò chuyên trách trong việc thiết kế những biện pháp ngăn ngừa trước thông qua việc xác định tình hình tội phạm, phân tích những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm (trong từng khu vực, địa phương hoặc trong phạm vi cả nước). Xét trên thực tế, sự không hoàn thiện của pháp luật phòng, chống ma túy về vấn đề này xuất phát từ sự thiếu vắng của pháp luật về phòng ngừa tội phạm nói chung. Theo đó, những quy định liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm như các nguyên tắc phòng ngừa tội phạm, chủ thể phòng ngừa tội phạm, các biện pháp phòng ngừa tội phạm… chưa được quy định. Điều này đã khiến cho việc xác định chủ thể chuyên trách của hoạt động phòng ngừa tội phạm, trong đó có các tội phạm về ma túy chưa được rõ ràng và dẫn tới việc thiếu cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng ngừa tội phạm, trong đó có các tội phạm về ma túy.
Thứ ba, những điểm chưa hợp lý của Bộ luật Hình sự năm 1999 trong việc quy định Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194)
Việc quy định 4 tội phạm độc lập trong cùng một điều luật: tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội vận chuyển trái phép chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma túy và tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194) tồn tại một số hạn chế nhất định. Việc quy định này không thể mô tả hết được hành vi khách quan và cấu thành cơ bản với từng tội phạm dẫn đến khó khăn cho việc xác định tội danh, quyết định hình phạt chính xác, công bằng và khó khăn trong việc xác định các tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm.[3] Bên cạnh đó, việc gộp chung này cũng chưa phân hóa được tính chất nguy hiểm của từng tội phạm khi các tội phạm này có cùng quy định về hình phạt.
Bên cạnh đó, theo tinh thần của Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, chất ma túy bị tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt bao gồm: nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao coca, heroin, cocain, lá hoa quả cần sa, quả thuốc phiện khô và tươi. Ngoài ra, Điều 194 còn dự liệu các chất ma túy khác ở thể rắn, lỏng. Theo khoản 1 Điều 2 Luật Phòng chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) thì “chất ma túy là chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ quy định”. Do đó, trong hoạt động xử lý các hành vi này, điều quan trọng là phải xác định xem chất ma túy đó có được quy định trong danh mục hay không? Điều này cũng đã gây ít nhiều khó khăn cho các cơ quan chức năng, nhất là khi trên thực tế xuất hiện các chất ma túy chưa có trong danh mục.
Mặt khác, Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 còn bộc lộ những quy định không hợp lý liên quan đến định lượng các chất ma túy, cụ thể:
(i) Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 dùng thuật ngữ “trọng lượng” gây nên khó hiểu vì trong khoa học và kỹ thuật, “trọng lượng” của một vật thường được hiểu là trọng lực tác dụng vào một vật.[4] Tuy nhiên, “trọng lượng” còn thường dùng để chỉ khối lượng của một vật cụ thể nào đó[5] (nhưng đây là nghĩa hiểu theo nghĩa thông thường, không chính xác về mặt khoa học). Theo chúng tôi, có thể ở đây có sự đồng nhất giữa việc sử dụng thuật ngữ “trọng lượng” với “khối lượng” của các chất ma túy và việc sử dụng thuật ngữ “trọng lượng” ở đây không phù hợp để định lượng các chất ma túy.
(ii) Vấn đề định lượng các chất ma túy được quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 liên quan đến các chất ma túy ở dạng thực vật như lá, hoa, quả cây cần sa, lá cây coca, quả thuốc phiện khô, tươi mà dựa vào “trọng lượng” của chính các loại lá, hoa, quả này cũng chưa thật sự chính xác vì hàm lượng ma túy còn phụ thuộc vào độ to, già của lá, hoa, quả của các loại thực vật này.
(iii) Liên quan đến định lượng heroin và cocain, Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 chưa quy định rõ là “trọng lượng” tính theo nguyên chất hay tính luôn tạp chất bởi lẽ trên thực tế, heroin và cocain có lẫn tạp chất là khá phổ biến. Liên quan đến vấn đề này, Thông tư liên tịch số 17 ngày 24/12/2007 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp quy định bắt buộc phải giám định hàm lượng các chất ma túy trong các chất thu giữ nghi là chất ma túy, để lấy đó làm căn cứ kết tội các bị cáo theo quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999. Gần đây nhất, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn 234 ngày 17/9/2014 yêu cầu Tòa án nhân dân các cấp quán triệt và triển khai thực hiện đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17 ngày 24/12/2007 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp về việc bắt buộc phải giám định hàm lượng của các chất ma túy trong các chất thu giữ nghi là chất ma túy. Như vậy, vấn đề ở đây là Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 sử dụng thuật ngữ “trọng lượng”, nhưng Thông tư liên tịch số 17 lại dùng thuật ngữ “hàm lượng”, có nghĩa là “lượng của một chất chứa trong một hỗn hợp hoặc trong một chất nào đó, tính bằng %”.[6] Công văn 234 của Tòa án nhân dân tối cao cũng căn cứ vào Thông tư liên tịch số 17 và điều này đã dẫn đến sự không thống nhất trong cách xử lý các tội phạm về ma túy hiện nay. Điều này có nghĩa cơ quan điều tra, Viện kiểm sát khởi tố và truy tố bị can theo khối lượng ma túy bị thu giữ nhưng Tòa án lại trả hồ sơ vụ án yêu cầu cơ quan điều tra giám định hàm lượng ma túy, tức là % tinh chất ma túy trong khối lượng ma túy bị thu giữ. Kết quả là nhiều vụ án về ma túy không thể đưa ra xét xử trong thời gian vừa qua.[7] Cũng liên quan đến vấn đề trên, ngày 15/4/2005, Thiếu tướng Nguyễn Anh Tuấn (Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Bộ Công an) đã ký Công văn số 602/C47 hướng dẫn lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an các địa phương giải quyết các vướng mắc do Công văn 234 của Tòa án nhân dân tối cao. Theo nội dung của Công văn này, trong khi chờ ý kiến thống nhất từ liên ngành Tư pháp trung ương, “các vụ án sau khi giám định hàm lượng chất ma túy mà trọng lượng ma túy quy ra từ hàm lượng không đủ trọng lượng để truy tố tội: Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thì Cơ quan điều tra vẫn kết luận điều tra, chuyển hồ sơ lên Viện Kiểm sát cùng cấp đề nghị truy tố, không đình chỉ điều tra”. Như vậy, có thể thấy rằng Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 sử dụng thuật ngữ “trọng lượng” khi muốn định lượng ma túy đã gây lúng túng, không thống nhất trong cách hiểu và áp dụng Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 của các cơ quan chức năng.
Thứ tư, sự chưa hoàn thiện của pháp luật liên quan đến hoạt động cai nghiện ma túy
Cai nghiện ma túy là một trong những biện pháp phòng ngừa các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy bởi tình trạng nghiện ma túy được xem là nguồn “cầu” và người phạm tội thực hiện các tội phạm quy định theo Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng nhằm đáp ứng cho nguồn “cầu” này. Chính vì vậy, trong các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về ma túy, song song với việc cắt nguồn “cung” ma túy thì chữa bệnh cho người nghiện là biện pháp cần được tiến hành đồng thời. Tính đến cuối năm 2014, Việt Nam có khoảng hơn 200.000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý.[8] Đây cũng là một trong những nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy tại Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, các quy định pháp luật liên quan đến việc chữa bệnh cho người nghiện ma túy còn tồn tại những điểm chưa hợp lý, ảnh hưởng đến hiệu quả phòng ngừa các tội phạm về ma túy, cụ thể:
– Đối với việc đưa người nghiện vào cơ sở chữa bệnh, Điều 29 Luật Phòng chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) đã quy định việc cai nghiện bắt buộc tại cơ sở riêng đối với người nghiện ma túy từ 12 đến 18 tuổi. Tuy nhiên, Điều 95 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đã giới hạn người bị đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Như vậy ở đây có sự không thống nhất giữa các văn bản luật và điều này cũng ảnh hưởng đến việc cai nghiện cho các đối tượng nghiện dưới 18 tuổi.
– Khoản 2 Điều 28 Luật Phòng chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) quy định thời gian cai nghiện bắt buộc là 1 đến 2 năm và quy định này cũng tương tự quy định tại Điều 95 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012. Như vậy, mỗi địa phương tùy tình hình thực tế có thể áp dụng thời hạn cai nghiện 1 hoặc 2 năm. Điều khoản này cho thấy việc thiếu cơ sở khoa học trong quy định thời hạn cai nghiện và dẫn đến tình trạng quá thời hạn 2 năm không thể tiếp tục cai nghiện cho một người nghiện – mặc dù người này chưa hết lệ thuộc vào ma túy và tạo ra sự không thống nhất ở các địa phương về việc áp dụng thời hạn cai nghiện.
– Luật Phòng chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) cũng chưa thấy đề cập vấn đề quản lý người sau cai nghiện cho nên thiếu cơ sở pháp lý cho các địa phương xây dựng mô hình quản lý người sau cai nghiện. Về vấn đề chủ thể phòng chống ma túy, Luật Phòng chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) còn chưa quy định rõ chủ thể nào là chủ thể chuyên trách cho nên chưa thật sự phát huy hết vai trò của các chủ thể trong hoạt động phòng chống tội phạm.
– Người có thẩm quyền xác định người nghiện ma túy để áp dụng hình thức cai nghiện bắt buộc là bác sĩ, y sĩ được quy định tại Điều 10 của Nghị định 221/2013/ NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ. Tuy nhiên vẫn chưa có quy định cụ thể về các tiêu chí cũng như phương pháp để xác định tình trạng nghiện của một người gây khó khăn, sự không thống nhất và thậm chí cả sự chủ quan trong việc xác định tình trạng nghiện, nhất là các đối tượng nghiện ma túy tổng hợp. Vướng mắc này đã gây khó khăn cho hoạt động cai nghiện ma túy và ảnh hưởng đến hoạt động phòng ngừa các tội phạm về ma túy trên địa bàn.
– Việc xác định nơi cư trú ổn định của người nghiện ma túy để áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc cũng còn gặp nhiều vướng mắc và ảnh hưởng đến công tác cai nghiện bắt buộc hiện nay trên địa bàn. Điểm c, khoản 1 Điều 8 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định: “Trường hợp chưa xác định được nơi cư trú ổn định của người vi phạm thì tiến hành xác định nơi cư trú ổn định của người đó. Trong thời hạn 15 ngày làm việc… nếu không xác định được nơi cư trú thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở bắt buộc theo quy định khoản 2 Điều 9 Nghị định này”. Với quy định trên, việc không xác minh được nơi cư trú có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau dẫn đến sự không thống nhất trong quá trình áp dụng. Tiêu chí “không xác minh được” có thể hiểu là địa phương được yêu cầu xác minh đã trả lời không xác minh được nhưng cũng có thể hiểu là khi không nhận được phản hồi từ cơ quan chức năng địa phương người đó đang cư trú.
2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy tại Việt Nam hiện nay
2.1. Hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa tội phạm
Như đã trình bày ở phần nguyên nhân và điều kiện, với những quy định của Luật Phòng, chống ma túy hiện nay thì có thể hiểu tất cả các cá nhân, cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội… đều là chủ thể của hoạt động phòng, chống ma túy. Tuy nhiên, chủ thể nào là chủ thể chuyên trách trong hoạt động phòng ngừa các tội phạm ma túy thì lại không được xác định rõ. Theo chúng tôi, vướng mắc hiện nay là tại Việt Nam chưa có cơ quan chuyên trách chưa có chủ thể chuyên trách trong hoạt động phòng ngừa các tội phạm ma túy. Chính vì vậy, vấn đề cần thiết hiện nay là thành lập cơ quan chuyên trách phòng ngừa tội phạm như Viện Tội phạm học hay Hội đồng Quốc gia phòng ngừa tội phạm như ở các nước phát triển.[9] Song song đó, Quốc hội cần ban hành Luật Phòng ngừa tội phạm, trong đó quy định rõ các vấn đề liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm, là cơ sở chung để tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm cụ thể. Trong văn bản này phải xác định chủ thể phòng ngừa tội phạm chuyên trách là Viện Tội phạm học hay cơ quan tương đương còn cơ quan Công an nhân dân, Cảnh sát nhân dân chỉ là đơn vị giữ vai trò chủ chốt trong hoạt động “chống”, tức là việc phát hiện hành vi phạm tội thông qua các biện pháp nghiệp vụ. Từ đó tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can và những công việc khác trong phạm vi chức năng, quyền hạn của đơn vị này.Ngoài ra, khi liệt kê các chất ma túy, Chính phủ cần quy định rõ chất nào là chất gây nghiện, chất nào là chất hướng thần nhằm phù hợp với khái niệm chất ma túy được quy định tại Điều 2 Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng khi giám định các chất ma túy cũng như phân hóa tính nguy hiểm của các chất ma túy khác nhau.
2.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự
Thứ nhất, Bộ luật Hình sự năm 1999 cần sử dụng thuật ngữ “khối lượng” thay cho thuật ngữ “trọng lượng” các chất ma túy vì “khối lượng” là thuật ngữ phổ biến để chỉ cân nặng của một vật. Ngoài ra, Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng cần quy định rõ khối lượng ma túy này là khối lượng ma túy bị thu giữ hay khối lượng ma túy sau khi giám định loại bỏ tạp chất. Việc quy định rõ này sẽ giúp thống nhất trong cách hiểu, áp dụng luật của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ hai, về định lượng hoa, quả cây cần sa, điểm i, khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng cần quy định cụ thể là áp dụng cho mọi hoa, quả cây cần sa hay có sự phân hóa về độ già của hoa, quả vì thực tế chứng minh rằng tùy thuộc vào độ già của hoa, quả mà lượng chất gây nghiện sẽ khác nhau.
Thứ ba, trường hợp Bộ luật Hình sự năm 1999 có phân biệt hàm lượng ma túy trong khối lượng ma túy bị thu giữ thì các quy định pháp luật về giám định hàm lượng ma túy cần được hoàn thiện. Ví dụ, một lô hàng là thuốc tân dược gồm 1000 viên có nghi vấn chứa các chất ma túy thì cơ quan chức năng phải giám định toàn bộ hay chỉ giám định theo mẫu trong thùng hàng đó rồi suy ra khối lượng còn lại. Công văn 234 của Tòa án nhân dân tối cao ngày 17/9/2014 yêu cầu Tòa án nhân dân các cấp quán triệt và triển khai thực hiện đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17 ngày 24/12/2007 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp về việc bắt buộc phải giám định hàm lượng của các chất ma túy trong các chất thu giữ nghi là chất ma túy, để lấy đó làm căn cứ kết tội các bị cáo theo quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuy nhiên, theo chúng tôi nội dung văn bản này phải được thể hiện trong văn bản pháp lý có hiệu lực cao hơn nhằm bảo đảm tính pháp chế và tính hiệu quả, tính công bằng của hoạt động xét xử các tội phạm về ma túy.
Một vấn đề khác cũng cần được quy định rõ hiện nay là cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ vào lời khai của bị can, bị cáo để xác định “trọng lượng” ma túy đã tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt trong những lần phạm tội mà cơ quan chức năng không phát hiện hay chỉ dựa vào “trọng lượng” ma túy bị phát hiện quả tang. Hiện nay, có trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng đã căn cứ vào “trọng lượng” ma túy trong những vụ phạm tội trước theo lời khai của bị cáo hoặc suy ra “trọng lượng” ma túy đã phạm tội dựa theo lời khai về thời gian phạm tội của bị can, bị cáo để cộng dồn lượng ma túy phạm tội quả tang và dùng làm căn cứ để áp dụng hình phạt.[10] Ở một khía cạnh nào đó, cách tính như vậy cũng nhằm đánh giá đầy đủ tính nguy hiểm của người phạm tội. Tuy nhiên, cách tính này có thể vi phạm nguyên tắc pháp chế vì chưa được quy định trong pháp luật, vi phạm nguyên tắc nhân đạo vì có thể gây bất lợi trong những trường hợp bị can thành khẩn khai báo. Mặc dù cách tính như trên là nhằm nâng cao hoạt động phòng chống tội phạm nhưng chúng tôi cho rằng hoạt động này phải gắn liền với việc bảo đảm tính công bằng, nguyên tắc pháp chế và nguyên tắc nhân đạo, do vậy nội dung này cần thiết phải được pháp luật quy định rõ.
Thứ tư, về mặt lập pháp, theo chúng tôi, Bộ luật Hình sự năm 1999 cần quy định 4 tội danh tại Điều 194 thành 4 điều luật độc lập, đó là: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, Tội vận chuyển trái phép chất ma túy, Tội mua bán trái phép chất ma túy, Tội chiếm đoạt chất ma túy nhằm phân hóa rõ tính chất nguy hiểm của từng hành vi phạm tội. Trong đó, Tội mua bán trái phép chất ma túy là tội phạm có tính nguy hiểm hơn các tội danh còn lại và cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn. Tương ứng với sự thay đổi trong việc quy định tội danh này, các khung hình phạt ở mỗi tội danh cần được quy định hợp lý và chi tiết hơn. Ví dụ, khoản 1 của mỗi điều luật không quy định chung chung như Điều 194 mà phải xác định cụ thể trọng lượng của chất ma túy, trọng lượng này có mức tối thiểu phải được xác định cho từng loại ma túy, mức tối đa là dưới gần kề mức tối thiểu của khoản 2. Việc quy định cụ thể này sẽ tạo điều kiện cho việc xác định tội danh và định khung hình phạt. Mặt khác, hình phạt tử hình trong các tội phạm này cũng cần được cân nhắc. Theo chúng tôi, hình phạt tử hình chỉ nên áp dụng ở tội mua bán trái phép chất ma túy và chỉ đối với người phạm tội là người có vai trò chỉ huy, tổ chức hành vi mua bán ma túy với số lượng lớn. Quy định này vừa bảo đảm tính nghiêm khắc nhưng cũng vừa thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta đối với các đối tượng vì nhất thời hám lợi mà thực hiện hành vi phạm tội.
2.3 Hoàn thiện các quy định pháp luật về cai nghiện ma túy
Một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay liên quan đến hoạt động cai nghiện ma túy là cần có sự thống nhất giữa các quy định pháp luật liên quan về cai nghiện bắt buộc mà cụ thể là biện pháp cai nghiện bắt buộc đối với trẻ em từ 12 đến dưới 18 tuổi nghiện ma túy. Theo chúng tôi, trẻ em nghiện ma túy sau thời gian 1 năm được cai nghiện tại gia đình, địa phương mà vẫn chưa cai nghiện được vẫn phải được tiến hành cai nghiện bắt buộc tại những cơ sở cai nghiện dành cho trẻ em bởi vì đây là độ tuổi rất quan trọng cần thoát khỏi sự lệ thuộc về ma túy. Vấn đề quan trọng là cơ sở cai nghiện bắt buộc cho trẻ em phải được tổ chức như thế nào để các em được hưởng sự chăm sóc sức khỏe tốt nhất và cuộc sống vật chất, tinh thần đầy đủ, lành mạnh, tránh tâm lý sợ hãi cho trẻ em và gia đình khi cai nghiện bắt buộc tại những cơ sở này.
Bên cạnh đó, Điều 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 cũng quy định hình thức cai nghiện bắt buộc chỉ áp dụng đối với người đã được giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tức là người có nơi cư trú ổn định và hình thức cai nghiện bắt buộc cũng được áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên chưa áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú ổn định. Tuy nhiên, vấn đề hiện nay là cần có văn bản dưới luật quy định rõ như thế nào là có nơi cư trú ổn định nhằm tránh tình trạng hiểu và áp dụng không thống nhất trong thực tiễn. Về thời hạn cai nghiện bắt buộc, theo chúng tôi, Luật Xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 không nên quy định là từ 1 đến 2 năm như hiện nay mà nên quy định thời gian cai nghiện bắt buộc là 2 năm và trong những trường hợp cần thiết có thể kéo dài thời gian này như: người tái nghiện nhiều lần, theo quyết định của bác sĩ có thể kéo dài đến 5 năm vì trên thực tế, thời gian 1 năm, 2 năm chỉ có thể giúp người nghiện cắt cơn nhưng sau thời gian đó người nghiện chưa quên được cảm giác do ma túy mang lại và có thể tái nghiện nếu về cộng đồng sớm.
Đối với hoạt động quản lý người sau cai nghiện, khoản 8 Điều 1 Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) quy định vấn đề quản lý người sau cai nghiện (đối với người bị áp dụng hình thức cai nghiện bắt buộc) thuộc trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã, riêng trường hợp người có nguy cơ tái nghiện cao phải được sự quản lý của cơ sở quản lý sau cai nghiện. Như vậy vấn đề cần thiết hiện nay là Chính phủ phải có văn bản hướng dẫn về việc thành lập cơ sở sau cai nghiện, chức năng, nhiệm vụ của cơ sở sau cai nghiện nhằm phát huy hiệu quả của hoạt động quản lý người sau thời gian cai nghiện ma túy bắt buộc. Song song đó, hiểu thế nào là người có nguy cơ tái nghiện cao cũng cần được hướng dẫn cụ thể, tránh sự không thống nhất trong quá trình áp dụng tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Về việc xác định một người như thế nào là nghiện ma túy, Bộ Y tế, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Công an cần sớm ban hành Thông tư liên tịch thống nhất các tiêu chí cũng như phương pháp để bác sĩ, y sĩ dễ dàng xác định tình trạng nghiện, tránh tình trạng xác định mang tính chủ quan hoặc bỏ sót các đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn, nâng cao hiệu quả cai nghiện ma túy- một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong hoạt động phòng ngừa các tội phạm về ma túy.
Hiện nay, các cơ quan áp dụng pháp luật vẫn chưa có cách hiểu thống nhất về thuật ngữ “không xác định được nơi cư trú” được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 8 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP của Chính phủ để áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc theo Điều 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Theo chúng tôi, Bộ Công an cần sớm có hướng dẫn về quy trình xác định nơi cư trú của người nghiện cũng như cách hiểu như thế nào là “không xác định được nơi cư trú”. Tình trạng “không xác định được nơi cư trú” có thể bao gồm hai trường hợp: (i) địa phương nơi được yêu cầu xác minh trả lời không xác minh được nơi cư trú, (ii) trong thời hạn 15 ngày cơ quan yêu cầu không nhận được trả lời từ nơi được yêu cầu xác minh nơi cư trú. Hiểu theo hai cách này sẽ kịp thời đáp ứng được thời gian hoàn tất hồ sơ, kịp thời áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc cho người nghiện ma túy.
CHÚ THÍCH
* ThS, Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh
[1] Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao từ năm 2005 đến năm 2014.
[2] Nguyễn Thị Phương Hoa, “Hoàn thiện khái niệm chất ma túy trong pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3 (34/2006), tr. 22.
[3] Báo cáo số 35/BC-BTP ngày 12/2/2015 của Bộ Tư pháp về kết quả tổng kết thực hiện thi hành Bộ luật Hình sự, tr. 17.
[4] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb. Phương Đông, tr. 958.
[5] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb. Phương Đông, tr. 958.
[6] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Nxb. Phương Đông, tr. 370.
[7] http://tuoitre.vn/tin/ban-doc/20141106/xu-an-ma-tuy-vuong-cong-van-234/667909.html, ngày truy cập: 6/11/2014.
[8] Thống kê của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội
Tham khảo thêm trang web: http://mmtvietnam.com/vi/professionals/drug-dependency-in-vietnam, ngày truy cập: 2/7/2015.
[9].Web.http://www.aic.gov.au;.http://www.publicsafety.gc.ca/cnt/cntrng-crm/crm-prvntn/index-eng.aspx; http://www.ncpc.org/about; http://www.justice.gov/usao-ndga/national-crime-prevention-council-ncpc ngày truy cập: 17/9/2014.
[10] Xem Bản án số 34/2005/HSST ngày 10/1/2005 của Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh.
Tác giả: ThS. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh* – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 06/2015 (91) – 2015, Trang 42-48
Fanpage Luật sư Online – iluatsu.com
Trả lời