Mục lục
Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Hình sự 1999 theo Công ước về chống tra tấn
Xem thêm bài viết về “Công ước chống tra tấn 1984”
- Pháp luật hình sự Việt Nam với Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn 1984 – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Vấn đề cấm tra tấn và việc hoàn thiện pháp luật thi hành án phạt tù – ThS. Nguyễn Quang Vũ & ThS. Lê Thị Anh Nga
- Nghĩa vụ hợp tác dẫn độ, tương trợ tư pháp hình sự và quyền tài phán phổ quát của quốc gia theo Công ước chống tra tấn năm 1984 – TS. Ngô Hữu Phước
- Thực hiện nghĩa vụ của quốc gia trong việc nội luật hóa các quy định của Công ước chống tra tấn trong lĩnh vực tố tụng hình sự – PGS.TS. Trần Văn Độ
- Nội luật hóa quy định của Công ước về chống tra tấn liên quan đến tài phán trong Bộ luật Hình sự Việt Nam – TS. Vũ Thị Thúy
TÓM TẮT
Ngày 7/11/2013, Việt Nam đã ký Công ước của Liên hợp quốc về Chống tra tấn năm 1984 sau đây gọi tắt là CAT. Điều này đã thể hiện chủ trương cũng như quyết tâm của Việt Nam trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người theo các chuẩn mực quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện những thủ tục pháp lý cuối cùng đã trở thành thành viên chính thức của Công ước này. Khi Công ước được thực thi tại Việt Nam sẽ đặt ra các nghĩa vụ quốc gia, trong đó nghĩa vụ nội luật hóa các quy định của Công ước, cụ thể là tội phạm hóa hành vi tra tấn vào pháp luật hình sự. Đây là nghĩa vụ quan trọng vì tạo tiền đề và cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ nạn nhân và xây dựng chính sách để ngăn ngừa hành vi tra tấn. Trong phạm vi bài viết tác giả tập trung phân tích quy định Điều 1 và Điều 4 của Công ước, đối chiếu với quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 để đánh giá mức độ tương thích của pháp luật hình sự Việt Nam với quy định công ước và tham khảo quy định của BLHS Liên bang Nga, Đức và Trung Quốc. Từ đó tác giả mạnh dạn đưa ra hai đề xuất cơ bản: một là tội phạm hóa hành vi tra tấn theo quy định của Công ước bằng cách quy định Tội tra tấn người khác trong khi thi hành công vụ quy định tại Chương các tội phạm về chức vụ; hai là bãi bỏ Tội dùng nhục hình quy định tại Điều 298 BLHS 1999.
1. Quy định của CAT về hành vi “tra tấn”[1]
Do tính chất đặc biệt nghiêm trọng của hành vi tra tấn, việc cấm tra tấn được quy định trong rất nhiều văn kiện của luật nhân quyền và luật hình sự quốc tế từ trước đến nay. Cụ thể như Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948[2] , Công ước quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị năm 1966[3] , CAT, Công ước về Xóa bỏ phân biệt đối xử đối với phụ nữ năm 1979 (CEDAW); Công ước về Quyền trẻ em năm 1989[4] . Theo các văn kiện này, hành vi tra tấn bị cấm tuyệt đối, trong mọi hoàn cảnh kể cả thời bình, thời chiến hay trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia. Ở góc độ pháp lý, theo luật nhân quyền quốc tế, tra tấn là một trong những hình thức vi phạm nhân quyền nghiêm trọng nhất, bị chỉ trích gay gắt nhất; còn theo luật hình sự quốc tế, hành vi tra tấn thực hiện một cách có hệ thống và mang tính phổ biến tùy theo bối cảnh có thể cấu thành các tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh hay tội phạm chống nhân loại, tức là những dạng tội phạm quốc tế mà thủ phạm có thể bị truy tố và xét xử theo Quy chế Rome (1998)[5] .
Các Công ước quốc tế như Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hợp quốc, Công ước quốc tế về các Quyền dân sự chính trị chủ yếu quy định nghĩa vụ quốc gia trong việc bảo đảm cho công dân của mình quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm chống lại các hành vi tra tấn dưới bất kỳ hình thức nào. CAT quy định về hành vi tra tấn trong lĩnh vực cụ thể, là văn kiện pháp lý quan trọng và trực tiếp nhất quy định về các hành vi tra tấn trong hoạt động thực thi quyền lực công.
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về hành vi tra tấn, ở mỗi góc độ tiếp cận chúng ta lại tìm thấy một khái niệm, định nghĩa khác nhau[6] . Nghiên cứu các tài liệu viết về hành vi tra tấn, tác giả nhận thấy thường có hai cách hiểu:
Một là,hiểu khái niệm tra tấn theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các hành vi gây đau đớn về thể xác hoặc tinh thần đối với người khác nhằm bất cứ mục đích gì và do bất kỳ ai thực hiện. Hành vi tra tấn là dạng hành vi có tính chất nghiêm trọng nên luôn bị nghiêm cấm trong các văn kiện pháp lý quan trọng nhất về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người;
Hai là,hiểu hành vi tra tấn theo nghĩa hẹp là chỉ giới hạn hành vi tra tấn trong hoạt động thực thi quyền lực công đối với nạn nhân là người bị tình nghi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hoặc người thứ ba có liên quan đến người bị tình nghi và chủ thể thực hiện là công chức hoặc được sự đồng ý của công chức.
Trên cơ sở nghiên cứu các văn kiện pháp lý quan trọng nhất về quyền con người của Liên hợp quốc, tác giả nhận thấy rằng Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948 đóng vai trò là văn kiện chung, các văn kiện còn lại sẽ cụ thể hóa và chi tiết hóa các quyền cụ thể trong các lĩnh vực hoặc các nhóm đối tượng cụ thể. Do vậy, theo quan điểm của tác giả khái niệm hành vi tra tấn trong CAT cần được giải thích theo nghĩa hẹp.
Điều 1[7] của Công ước là quy định đầu tiên trong thỏa thuận quốc tế về định nghĩa tra tấn[8] . Một trong những giá trị của CAT là đã quy định khái niệm về hành vi tra tấn tại Điều 1 có tính bắt buộc chung đối với các quốc gia là thành viên của Công ước. Bởi lẽ những nội dung của CAT sẽ trở nên vô nghĩa và sẽ không bao giờ có khả năng áp dụng nếu mỗi quốc gia lại viện cho riêng mình một định nghĩa về tra tấn[9] .
Từ quy định tại Điều 1, các yếu tố chính trong định nghĩa tra tấn bao gồm[10] :
– Có liên quan đến các công chức;
– Gây ra đau đớn hoặc khổ đau nghiêm trọng;
– Lỗi cố ý;
– Nhằm vào những mục đích đặc biệt .
Trên cơ sở đó, theo tác giả hành vi “tra tấn” có các đặc điểm sau:
– Tính chất của hành vi:tra tấn là hành vi bằng các cách thức khác nhau cố ý gây đau đớn hoặc khổ đau nghiêm trọng về thể xác hoặc tinh thần. Việc tra tấn không chỉ giới hạn ở các hành vi gây đau đớn về thể xác mà còn bao gồm những hành vi gây đau đớn về tinh thần. Đây là một quy định của Công ước mà các quốc gia cần lưu ý, vì theo quan điểm truyền thống của nhiều quốc gia thì các hành vi tra tấn thường chỉ được hiểu là các hành vi tra tấn về thể xác. Hành vi tra tấn có thể được thực hiện với nhiều cách thức khác nhau, Công ước không chính thức phân chia thành các loại hành vi tra tấn mà chỉ ghi nhận những trường hợp tra tấn ở các quốc gia khác nhau[11] . Căn cứ vào hậu quả tác động của tra tấn như định nghĩa đã đề cập thì tra tấn có thể chia thành hai loại. Tra tấn về thể chất như đánh đập nạn nhân, dìm nạn nhân vào thùng nước, dùng kẹp điện phóng điện vào các bộ phân cơ thể của nạn nhân, không cho mặc quần áo đứng ngoài trời giá lạnh, không cung cấp thức ăn, nước uống, quần áo, sưởi ấm, thuốc men hoặc các chăm sóc y tế… Tra tấn về tinh thần là những tác động gây ra những tổn thương tâm lý, suy nhược. Những tổn thương tinh thần thường khó phát hiện hơn tổn thương về thể chất[12] . Những hành vi tra tấn tinh thần thường gặp có thể là biệt giam trong một căn phòng không có ánh sáng trong một thời gian dài, cho nạn nhân chứng kiến cảnh người thân của mình bị hành hạ, luôn luôn bị nghe những âm thanh khiến nạn nhân bị ám ảnh hay ức chế, không cho nạn nhân thực hiện các nghi lễ tôn giáo, chà đạp các biểu tượng tôn giáo của nạn nhân, sỉ nhục nguồn gốc của nạn nhân.
– Đối tượng tác động của hành vi tra tấncóthể là người đã thực hiện hoặc bị nghi ngờ thực hiện một hành vi nhất định hoặc thậm chí nạn nhân không phải là người đã bị nghi ngờ thực hiện hành vi nhưng vẫn bị tra tấn nhằm lấy thông tin từ người đã thực hiện hành vi hoặc bị nghi ngờ thực hiện hành vi. Điều 1 của Công ước không quy định rõ là hành vi tra tấn được thực hiện trong trường hợp nào mà chỉ quy định mục đích của hành vi tra tấn, nên hành vi tra tấn có thể được thực hiện trong hoạt động tố tụng, trong giai đoạn tiền tố tụng hoặc trong hoạt động thực thi quyền lực công khác.
– Mục đích của hành vi tra tấn bao gồm[13] :
– Lấy lời thú tội;
– Lấy thông tin của nạn nhân hay một người thứ ba;
– Trừng phạt nạn nhân vì một hành vi mà họ hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện;
– Đe dọa hayép buộc nạn nhân vì một hành vi mà họ hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ thực hiện;
– Vì một lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức.
Cần lưu ý rằng Điều 1 Công ước không quy định động cơ của người thực hiện hành vi tra tấn, người phạm tội có thể vì những động cơ khác nhau như nhận thức không đúng về công vụ hoặc do động cơ cá nhân mang tính chất phân biệt, đối xử.
– Chủ thể thực hiện hành vi tra tấn là công chức hay người nào khác hành động với tư cách chính thức gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận của một công chức[14] .
Như vậy, chủ thể thực hiện việc tra tấn có thể là 3 loại người sau[15] :
– Cán bộ, công chức nhà nước;
– Cá nhân không phải là cán bộ, công chức, nhưng thực hiện nhiệm vụ với tư cách là một cán bộ, công chức nhà nước;
– Bất kỳ cá nhân nào thực hiện hành vi tra tấn được sự hậu thuẫn của cán bộ, công chức bằng cách xúi giục, đồng tình hay ưng thuận.
Với quy định về định nghĩa tra tấn ở Điều 1, Công ước ràng buộc nghĩa vụ của các quốc gia thành viên phải tội phạm hóa hành vi tra tấn vào pháp luật hình sự theo quy định của Điều 4 Công ước[16] .
2. Quy định của BLHS năm 1999 về các tội phạm có quy định hành vi “tra tấn” theo quy định của CAT
Hiện nay trong quy định của luật hình sự Việt Nam chưa có một định nghĩa chính thức về hành vi “tra tấn” nói chung hay “tra tấn” trong hoạt động tư pháp nói riêng mà chỉ có quy định những tội phạm cụ thể với các hành vi có tính chất tương tự như hành vi tra tấn.
Theo góc tiếp cận của tác giả thì CAT là Công ước quy định riêng cho việc chống tra tấn trong hoạt động của công chức nhà nước hoặc có đồng phạm của công chức trong hoạt động thực thi quyền lực công, nên tác giả chỉ đối chiếu với các quy định của BLHS Việt Nam về các tội phạm có liên quan trực tiếp đến nhóm chủ thể này mà chủ yếu là các tội phạm trong Chương Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, do đặc thù xây dựng Phần các tội phạm của BLHS năm theo nhóm khách thể loại, không phải theo hành vi nên hành vi “tra tấn” theo tinh thần Công ước liên quan đến nhiều tội phạm quy định rải rác trong các tội khác nhau ở các Chương khác nhau.
BLHS 1999 đã quy định các tội xâm phạm hoạt động tư pháp tại Chương XXII từ Điều 292 đến Điều 314. Trong đó các tội phạm trực tiếp quy định các hành vi có tính chất tra tấn bao gồm các tội phạm sau:
– Tội dùng nhục hình quy định tại Điều 298 BLHS năm 1999[17]
Dùng nhục hình là một trong những tội phạm quan trọng trong Chương Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, là dạng hành vi phạm tội có khả năng xảy ra và cũng thường xảy ra trên thực tế. Trong một vài năm trở lại đây đã có hàng loạt những vụ dùng nhục hình trong hoạt động tư pháp dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như chết người, hoặc gây thương tích nặng cho nạn nhân gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp[18] .
Hành vi khách quan của tội dùng nhục hình là hành vi sử dụng nhục hình trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Vì nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp xâm phạm khách thể là hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp bao gồm cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án[19] , nên giới hạn của hành vi dùng nhục hình quy định tại Điều 298 BLHS năm 1999 cũng chỉ giới hạn trong hoạt động của các cơ quan này mà không bao gồm hành vi dùng nhục hình trong quá trình xử lý vi phạm hành chính. Nếu người thi hành công vụ có hành vi dùng nhục hình trong xử lý vi phạm hành chính thì có thể cấu thành một tội phạm khác.
Dùng nhục hình trong hoạt động tư pháp là tra tấn, đánh đập người đang bị điều tra, bị giam giữ, bị xét xử, cũng như dùng những thủ đoạn tàn ác khác gây đau đớn về thể xác, gây tổn hại về sức khỏe như bắt nhịn ăn, nhịn uống, ăn cơm nhạt, không cho ngủ… [20] Quy định tại Điều 298BLHS năm 1999 là dạng quy định giản đơn, không mô tả chi tiết hành vi cụ thể mà thực tiễn xét xử dựa vào văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một vài hành vi cụ thể, không mang tính khái quát hành vi. Những hướng dẫn cụ thể chủ yếu ở dạng tra tấn về thể chất, chưa đề cập hoặc nhấn mạnh đến tra tấn về tinh thần.
Đối tượng tác động của hành vi dùng nhục hình bao gồm người đang bị điều tra, bị giam giữ, bị xét xử. Đối tượng tác động của hành vi dùng nhục hình này không bao gồm đối với người thứ ba có liên quan đến người đang bị điều tra, bị giam giữ hoặc bị xét xử. Đối tượng tác động của hành vi dùng nhục hình cũng không bao gồm những người bị truy cứu trách nhiệm trong những trường hợp khác như trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm kỷ luật. Nếu so với quy định của Công ước thì phạm vi đối tượng tác động của Tội dùng nhục hình hẹp hơn.
Tội dùng nhục hình có cấu thành hình thức, người phạm tội chỉ cần thực hiện hành vi là đủ cấu thành tội phạm.
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý, người dùng nhục hình biết rõ là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Trong dấu hiệu mặt chủ quan của tội dùng nhục hình chỉ quy định dấu hiệu lỗi, động cơ và mục đích phạm tội không có tính chất bắt buộc. Trên thực tế người phạm tội có thể vì động cơ cá nhân hoặc động cơ không đúng về lợi ích công tác. Nếu người phạm tội thực hiện hành vi dùng nhục hình vì động cơ không đúng về lợi ích công tác thì có thể được xem xét khi quyết định hình phạt.
Chủ thể của tội dùng nhục hình là chủ thể đặc biệt, là người có chức vụ, quyền hạn, nhân viên tư pháp trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Trong thực tiễn, chủ thể của tội này có thể là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, nhân viên trại giam, trại cải tạo và cũng có thể là công an xã, phường trong khi hoạt động tư pháp như tham gia bắt giữ người khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Nếu nhân viên công an xã, phường, hải quan, thuế vụ, kiểm lâm dùng nhục hình trong khi xử lý về hành chính đối với người phạm pháp, người bị tình nghi thì bị xử lý theo Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ hoặc Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ[21] . Tuy nhiên, để cấu thành Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281 BLHS) hoặc Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282 BLHS) thì hành vi dùng nhục hình phải gây hậu quả nghiêm trọng. Trong thực tế, việc định tội danh trong trường hợp này cũng có nhiều bất cập do Điều 281 và Điều282 điều chỉnhcác tội phạm về tham nhũng, người phạm tội vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân.
Nếu so sánh với phạm vi trong CAT 1984 thì hành vi tra tấn theo Công ước bao gồm cả các hành vi tra tấn trong hoạt động thực thi quyền lực công nói chung. Theo yêu cầu của Công ước thì việc xử lý đối với hành vi tra tấn trong hoạt động tố tụng hay xử lý trách nhiệm khác là không có sự phân biệt.
Hậu quả nghiêm trọng quy định ở khoản 2 thể hiện như người bị nhục hình bị suy kiệt, uất ức mà tự sát, gây ảnh hưởng chính trị không tốt[22] . Cần lưu ý rằng hậu quả nghiêm trọng quy định tại Khoản 2 Điều 298 không bao gồm thiệt hại trực tiếp về tính mạng hoặc sức khỏe, nếu người phạm tội dùng bạo lực vật chất để dùng nhục hình mà gây chết người hoặc thương tích cho nạn nhân thì bị truy cứu trách nhiệm theo nguyên tắc phạm nhiều tội[23] . Vì giới hạn khách thể trực tiếp của Tội dùng nhục hình là hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp, không bao hàm thiệt hại trực tiếp về tính mạng, sức khỏe của công dân.
– Tội bức cung Điều 299 BLHS[24]
Tội bức cung là hành vi của người tiến hành điều tra, truy tố, xét xử mà bằng các thủ đoạn trái pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật gây hậu quả nghiêm trọng.[25]
Xét về khách thể, hành vi bức cung xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, đồng thời tội phạm này còn có thể gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức hoặc công dân. Đối tượng tác động của tội phạm có thể là người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại.
Hành vi bức cung được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn trái pháp luật trong khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật. Thủ đoạn trái pháp luật có thể là đe dọa dùng nhục hình, đe dọa giam người thân của người bị thẩm vấn, để tác động đến ý chí của người bị thẩm vấn phải khai không đúng với sự thật[26] . Trong thực tế thủ đoạn thường sử dụng để bức cung là dùng nhục hình. Nếu người phạm tội dùng nhục hình để bức cung mà gây ra những hậu quả nghiêm trọng theo quy định tại Điều 299 BLHS thì phải định tội danh như thế nào? Đây là vấn đề hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau, với quy định hiện nay về giới hạn hành vi, giới hạn hậu quả thì theo tác giả trong trường hợp này phải định tội danh theo nguyên tắc phạm nhiều tội vì không tội nào có thể thu hút được tội còn lại.
Khác với hành vi dùng nhục hình có thể được thực hiện trong cả hoạt động thi hành án thì hành vi bức cung chỉ thực hiện trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử, vì mục đích của hành vi bức cung là để lấy các lời khai không đúng sự thật phục vụ cho việc kết án.
Tội bức cung là tội có cấu thành vật chất nên hành vi chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi gây hậu quả nghiêm trọng như dẫn đến việc bắt giữ, truy tố, xét xử oan sai, gây ra gia đình tan nát, kinh tế kiệt quệ, người bị thẩm vấn vì uất ức mà tự sát, gây ảnh hưởng chính trị không tốt[27] . Trên thực tế hậu quả của hành vi bức cung là dẫn đến những vụ án oan sai, gây ra những hậu quả to lớn cho chính người bị thẩm vấn, gia đình của họ và ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, hiệu quả hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng[28] .
Hành vi bức cung được thực hiện với lỗi cố ý, động cơ không phải là dấu hiệu định tội. Chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt là người có trách nhiệm tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử. Nếu nhân viên công an xã, phường, hải quan, thuế vụ, kiểm lâm dùng nhục hình trong khi xử lý về hành chính đối với người phạm pháp, người bị tình nghi thì bị xử lý theo Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ hoặc Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ[29] .
Do đặc thù trong quy định các tội phạm của pháp luật hình sự Việt Nam, cơ sở quan trọng để phân định tội phạm là khách thể trực tiếp chứ không phải hành vi, nên hành vi tra tấn ngoài việc cấu thành hai tội cơ bản nhất là Tội dùng nhục hình và Tội bức cung thì hành vi tra tấn còn có thể cấu thành các tội phạm sau;
+ Tội giết người (Điều 93 BLHS 1999): trong trường hợp người phạm tội dùng nhục hình bằng cách dùng bạo lực vật chất tác động trực tiếp đến thân thể nạn nhân nhằm tước đoạt tính mạng của nạn nhân với lỗi cố ý trực tiếp thì phải định tội danh theo (Điều 93 BLHS 1999);
+ Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97 BLHS 1999): trong trường hợp người phạm tội có hành vi dùng nhục hình hoặc bức cung mà gây thiệt hại trực tiếp về tính mạng vì động cơ nhận thức không đúng về yêu cầu của công vụ thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Lỗi của người phạm tội trong trường hợp này chỉ là lỗi cố ý gián tiếp hoặc lỗi vô ý;
+ Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107 BLHS 1999): trong trường hợp người phạm tội có hành vi dùng nhục hình hoặc bức cung mà gây thiệt hại trực tiếp về sức khỏe với tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên vì động cơ nhận thức không đúng về yêu cầu của công vụ thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Lỗi của người phạm tội trong trường hợp này là lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý;
+ Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281 BLHS 1999): trong trường hợp người dùng nhục hình hoặc bức cung là người có chức vụ quyền hạn nhưng không phải trong hoạt động tố tụng hình sự mà trong phạm vi chức vụ, quyền hạn của mình đã thực hiện hành vi dùng nhục hình hoặc bức cung thì định tội danh theo Điều 281 BLHS 1999. Nếu người phạm tội vượt ra khỏi phạm vi chức vụ, quyền hạn của mình thì định tội danh theo Điều 282 Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ;
+ Ngoài ra, nếu có hành vi dùng nhục hình trong quân đội thì có thể cấu thành Tội làm nhục hoặc dùng nhục hình đối với cấp dưới (Điều 320 BLHS 1999) hoặc Tội ngược đãi tù binh, hàng binh (Điều 340 BLHS 1999).
3. Quy định của pháp luật hình sự một số nước về hành vi tra tấn và kinh nghiệm đối với Việt Nam
* Bộ luật hình sự của Đức
BLHS của Đức không quy định tên tội danh là dùng nhục hình hoặc tra tấn mà tên tội danh là Cưỡng ép khai báo ở Điều 343 quy định trong Chương thứ ba mươi Các tội phạm trong chức trách[30] . Tuy tên điều luật là Tội cưỡng ép khai báo nhưng quy định tại Điều 343 BLHS CHLB Đức có nhiều tương đồng với quy định về hành vi tra tấn quy định tại Điều 1 Công ước.
Về hành vi khách quan của tội phạm là hành vi cưỡng ép khai báo bằng các thủ đoạn thực hiện hành vi là hành hạ thể xác, dùng bạo lực, đe dọa dùng bạo lực hoặc gây đau đớn về tinh thần, xét về tính chất hành vi là giống với quy định của Công ước bao gồm cả tra tấn về thể chất và tra tấn về tinh thần. Xét về phạm vi, thì hành vi được thực hiện trong một quá trình tố tụng hình sự, một quá trình tố tụng để ra lệnh giữ, quá trình tố tụng xử phạt tiền hoặc quá trình tố tụng kỷ luật hoặc một quá trình tố tụng của Tòa án danh dự hoặc của Tòa án nghề nghiệp. Tuy Điều 343 chỉ giới hạn trong các hoạt động tố tụng, không quy định rõ như tinh thần Công ước là quá trình thực thi quyền lực công, nhưng quy định đã mở rộng cả quá trình tố tụng hình sự và các qúa tố tụng khác như ra lệnh giữ người, xử phạt tiền hoặc xử lý kỷ luật. Đây là quy định có nhiều ưu điểm so với quy định của Việt Nam, Nga hoặc Trung Quốc thường chỉ giới hạn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án. Nếu hành vi xảy ra trong quá trình thực thi quyền lực công khác thì phải định tội danh ở một điều luật khác.
Quy định tại Điều 343 BLHS Đức về đối tượng tác động trong hành vi cưỡng ép khai báo không giới hạn cụ thể, có thể là người bị tình nghi, bị can, bị cáo hoặc người khác như người bị hại, người làm chứng.
Mục đích của việc thực hiện hành vi là nhằm làm cho nạn nhân phải khai báo, khẳng định một điều gì đó hoặc không được khai báo, không được khẳng định một điều gì đó, nghĩa là mục đích của hành vi là nhằm cưỡng ép khai báo hay là bức cung.
* BLHS của Cộng hòa liên bang Nga
Trên cơ sở đối chiếu quy định của CAT và BLHS Liên bang Nga, nhận thấy có hai điều luật trực tiếp liên quan đến hành vi tra tấn là Điều 302 Tội bức cung và nhục hình quy định tại Chương 31 Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp[31] vàĐiều 117 Tội dùng nhục hình quyđịnh trong Chương 16 Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe[32] .
BLHS của Liên bang Nga có điểm tương đồng với BLHS Việt Nam là cũng xây dựng Chương về Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, và hành vi tra tấn quy định trực tiếp nhất ở Điều 302 Tội bức cung và nhục hình. Tuy nhiên, khác với Điều 298 và 299 BLHS Việt Nam, tội bức cung và nhục hình trong BLHS của Liên bang Nga chỉ quy định chủ thể là điều tra viên, người tiến hành điều tra hoặc người im lặng đồng ý cho điều tra viên hoặc người tiến hành điều tra thực hiện hành vi phạm tội trong hoạt động điều tra. Đối tượng tác động của tội phạm là nghi can, bị can, nạn nhân, nhân chứng. Hành vi được quy định ở Điều 302 là hành vi cưỡng bức, ép buộc nạn nhân bằng cách đe dọa hay lăng mạ để họ đưa ra lời khai. Nếu hành vi có sử dụng vũ lực, nhạo báng hoặc tra tấn thì bị truy cứu ở khoản 2 Điều 302.
Vì hành vi bức cung và nhục hình ở Điều 302 chỉ giới hạn trong hoạt động của điều tra viên, người tiến hành điều tra nên BLHS của Liên bang Nga quy định Tội dùng nhục hình như một dạng cấu thành chung ở Điều 117 thuộc Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe. Hành vi dùng nhục hình quy định tại Điều 117 là hành vi “Gây đau khổ về thể xác và tinh thần cho người khác bằng cách thường xuyên hành hung hoặc bằng những hành vi vũ lực khác”. Một ghi chú rất quan trọng ở Điều 117 là“Nhục hình trong Điều này và cả những Điều khác của Bộ luật này được hiểu là gây ra những đau khổ về thể xác và tinh thần nhằm mục đích ép buộc người bị nhục hình phải khai ra hoặc thực hiện những hành vi trái với ý muốn của họ cũng như nhằm những mục đích trừng phạt hay nhằm những mục đích khác (Ghi chú này được đưa vào sửa đổi theo Luật Liên bang ngày 21/7/2004)”[33] .Ghi chú này đã thể hiện quy định của BLHS của Nga rất gần với quy định về mục đích của hành vi tra tấn theo quy định tại Điều 1 Công ước mà Việt Nam có thể tham khảo.
Nếu so sánh với quy định của BLHS Việt Nam thì luật hình sự của Nga đã quy định hành vi tra tấn bao gồm cả hành vi gây đau khổ cả thể xác và tinh thần, quy định rõ mục đích của việc dùng nhục hình là nhằm lấy lời khai, thông tin hoặc trừng phạt hoặc nhằm mục đích khác. Các mục đích này gần với các mục đích của hành vi tra tấn được quy định tại Điều 1 Công ước và cũng tương đồng với Luật hình sự Việt Nam vì hành vi dùng nhục hình có thể nhằm mục đích bức cung hoặc nhằm mục đích khác.
Một quy định trong BLHS của Nga mà Việt Nam có thể tham khảo là trong quy định về Tội bức cung và nhục hình Điều 302 và Tội dùng nhục hình Điều 117 đã quy định loại trừ hậu quả thiệt hại về tính mạng, sức khỏe khỏi phạm vi của các tội này. Việc gây ra các hậu quả này, nếu có phải bị phải xử ở tội giết người hoặc các tội về cố ý gây thương tích.
* BLHS của nước CHND Trung Hoa
BLHS của Trung Quốc quy định về hành vi tra tấn trực tiếp nhất là tại Chương IV Các tội xâm phạm quyền tự do thân thể, quyền dân chủ của công dân tại Điều 247 và Điều 248[34] . Khác với quy định của BLHS của Nga và Việt Nam, chủ yếu quy định hành vi tra tấn trong các tội thuộc chương Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, hoặc luật của Đức trong Chương Các tội phạm trong chức trách thì BLHS Trung Quốc lại quy định hành vi tra tấn trong Chương Các tội xâm phạm quyền tự do thân thể, quyền dân chủ của công dân ở Điều 247 liên quan đến hành vi của nhân viên tư pháp mà tiến hành bức cung đối với bị can, bị cáo hoặc dùng vũ lực bức cung nhân chứng và Điều 248 liên quan đến hành vi nhân viên quản giáo của nhà tù, trại giam mà có hành vi đánh đập hoặc ngược đãi đối với những người bị giám quản. Nếu nhân viên quản giáo ra lệnh cho người bị giám quản đánh đập hoặc ngược đãi người bị giám quản khác thì bị xử phạt tương tự. Điểm khác biệt của BLHS Trung Quốc là đã tách biệt hành vi tra tấn đối với người bị giam giữ thành điều luật riêng với quy định về hình phạt nghiêm khắc hơn. Chủ thể của các tội quy định ở Điều 247 và Điều 248 cũng được xác định cụ thể là nhân viên tư pháp (Điều 247) và nhân viên quản giáo, người bị giám quản thực hiện hành vi dưới sự ra lệnh của nhân viên quản giáo, nghĩa là chỉ giới hạn hành vi trong hoạt động tố tụng hoặc hoạt động thi hành án đối với bị can, bị cáo, người làm chứng (Điều 248) và người bị giam giữ (Điều 249) mà không bao gồm các hoạt động thực thi quyền lực công khác. BLHS Trung Quốc quy định hành vi tra tấn dưới dạng bức cung hoặc dùng vũ lực bức cung (Điều 247); hành vi đánh đập hoặc ngược đãi (Điều 248). Đây chủ yếu là những hành vi dưới dạng tra tấn thể chất mà chưa quy định trực tiếp hành vi dưới dạng tra tấn tinh thần. Về mục đích của hành vi thì chỉ quy định ở Điều 247 có quy định hành vi dùng nhục hình nhằm để bức cung đối với bị can, bị cáo hoặc người làm chứng. Điều 247 và Điều 248 của BLHS của Trung Quốc quy định rõ ranh giới giữa hành vi dùng nhục hình với các tội giết người (Điều 232) và tội cố ý gây thương tích (Điều 234). Quy định này cũng tương tư như luật của Nga. Theo tác giả đây là một kinh nghiệm lập pháp mà Việt Nam có thể tham khảo khi hoàn thiện các quy định của BLHS 1999 đối với các tội phạm về hành vi tra tấn.
4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của BLHS về các tội phạm cụ thể theo tinh thần của CAT
Nghiêm cấm mọi hành vi tra tấn và kiên quyết đấu tranh với hành vi tra tấn luôn là chủ trương và quyết tâm của Việt Nam, đặc biệt là hành vi tra tấn của người có chức vụ, quyền hạn trong quá trình thực thi quyền lực công. Chủ trương này thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ chính sách pháp luật của Việt Nam từ Hiến pháp đến các luật chuyên ngành, trong đó pháp luật hình sự là một trong những công cụ pháp lý cơ bản nhất. Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Trên cơ sở phân tích quy định của Công ước và rà soát toàn bộ quy định của BLHS năm 1999 và Luật sửa đổi bổ sung năm 2009, theo tác giả luật hình sự Việt Nam đã có các điều luật khác nhau quy định các tội danh cụ thể về các hành vi có tính chất tra tấn một cách cơ bản nhất so với yêu cầu chung của Công ước là nghiêm cấm và xử lý nghiêm đối với các hành vi tra tấn. Tuy nhiên, do đặc trưng của pháp luật hình sự Việt Nam nên trong BLHS không có một tội danh tra tấn riêng biệt bao trùm được hết các dấu hiệu của hành vi tra tấn như quy định tại Điều 1 Công ước. Khi đánh giá cụ thể mức độ tương thích giữa quy định của BLHS Việt Nam với các quy định của Công ước về nghĩa vụ tội phạm hóa các hành vi tra tấn vào pháp luật hình sự cần phải đối chiếu với quy định của nhiều tội phạm khác nhau.
Tuy BLHS Việt Nam đã có quy định các tội danh cụ thể, nhưng vẫn còn một số vấn đề chưa có sự tương thích với quy định của Công ước. Cụ thể:
Về hành vi khách quan của tội phạm:Luật hình sự Việt Nam chưa quy định và nhấn mạnh nhiều đến hành vi tra tấn về tinh thần. Các hành vi làm nhục, bức cung hoặc các hành vi quy định rải rác trong các tội danh khác, trong hành vi khách quan chủ yếu quy định về dạng hành vi tra tấn về thể chất, chưa quy định trực tiếp tra tấn về tinh thần. Mặt khác, các điều luật chủ yếu quy định dưới dạng giản đơn, chưa có sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật.
Đối tượng tácđộng của tội phạm:quy định của BLHS năm 1999 về các tội phạm có liên quan trực tiếp đến hành vi tra tấn chủ yếu nhấn mạnh ở yếu tố chủ thể mà không quy định rõ đối tượng tác động. Đối tượng tác động thường được xác định là người bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án, hoặc người bị xử lý vi phạm hành chính (Điều 281, 282). Nếu so với phạm vi đối tượng tác động quy định tại Điều 1 Công ước thì quy định của BLHS hẹp hơn.
Chủ thể của các tội phạm có quy địnhvề hành vi tra tấn được xác định là người có chức vụ, quyền hạn, nhân viên tư pháp trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án (Điều 288, 289) hoặc người có chức vụ quyền hạn trong việc thực thi quyền lực công (Điều 281, 282) hoặc có chức vụ quyền hạn trong quân đội (Điều 320, 340). Nếu người trực tiếp thực hiện hành vi có tính chất tra tấn không phải thuộc các chủ thể nêu trên cho dù có sự đồng phạm (với vai trò tổ chức, xúi giục, giúp sức) của người có chức vụ quyền hạn thì không định tội danh vào các tội này mà phải định tội danh vào các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe thông thường khác. Bởi vì, đây làcác tội phạm có chủ thể đặc biệt và nguyên tắc xác định trách nhiệm hìnhsự trong đồng phạm là người thực hành phải có dấu hiệu chủ thể đặc biệt.
Trên cơ sở phân tích quy định, yêu cầu của Công ước, đánh giá mức độ tương thích của pháp luật hình sự Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm trong quy định của BLHS Đức, Nga và Trung Quốc, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện một số quy định của BLHS năm 1999 về các tội phạm cụ thể:
Thứ nhất,Điều 4 Côngước chỉ yêu cầu các quốc gia tội phạm hóa các hành vi tra tấn vào pháp luật, nên việc cóquyđịnh một tội danh tra tấn bao hàm toàn bộ nội dung quy định ở Điều 1 Công ước hay không là tùy vào đặc trưng trong lập pháp hình sự của mỗi quốc gia là khác nhau, kinh nghiệm lập pháp hình sự của nhiều nước cũng chỉ ra điều đó. Cơ sở quan trọng để quy định tội phạm theo luật hình sự Việt Nam là yếu tố khách thể trực tiếp chứ không phải hành vi, nên hành vi tra tấn theo tinh thần Công ước có thể được quy định trongnhiều tội phạm.
Theo Công ước,hành vi tra tấn do công chức nhànước, người thực hiện chức trách như công chức hoặc có sự đồng phạm của công chức thực hiện nhằm nhiều mục đích khác nhau, nên theo tác giả với đặc trưng của luật hình sự hiện nay, cần quy định Tội tra tấn người khác trong khi thi hành công vụquy định trong Chương Các tội phạm về chức vụ với tư cách như là một cấu thành chung. Nếu tra tấn để bức cung thì truy cứu hai tội là Tội tra tấn người khác trong khi thi hành công vụvàTội bức cung; nếu tra tấn trong quânđội thìtruy cứuở các tội phạm trong Chương các tội xâm phạm trách nhiệm, nghĩa vụ của quân nhân. Mục tiêu của Công ước là nhằm bảo vệ con người khỏi hành vi tra tấn từ việc thực thi quyền lực công, nên Tội tra tấn người khác trong khi thi hành công vụ được quy định trong Chương các tội phạmvề chức vụ là có cơ sở vì các tội phạm về chức vụ vừa xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đồng thời xâm phạm quyền, ích hợp pháp khác của công dân.
Tội tra tấn người khác trong khi thi hành công vụsẽ có hai khách thể trực tiếp là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức và quyền nhân thân của con người. Vì khách thể trực tiếp bao gồm cả quyền nhân thân nên hậu quả của tội phạm sẽ bao gồm cả thiệt hại về tính mạng với lỗi vô ý và thiệt hại về sức khỏe. Về mặt khách quan, hành vi khách quan sẽ bao gồm cả tra tấn về thể chất và tra tấn về tinh thần, hậu quả được quy định là tình tiết định khung tăng nặng. Hành vi được thực hiện trong khi thi hành công vụ nghĩa là trong quá trình thực thi quyền lực công nói chung theo tinh thần quy định của Công ước. Nếu hành vi tra tấn gây hậu quả chết người với lỗi cố ý thì phải định tội danh theo tội giết người. Chủ thể của tội phạm là người có chức vụ quyền hạn nói chung. Động cơ, mục đích phạm tội không là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm.
Từ những phân tích trên, tác giả kiến nghị BLHS 1999 cần quy định một tội danh độc lập về hành vi tra tấn như sau:
Điều ….: Tội tra tấn người khác trong khi thi hành công vụ
1) Người nào lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc lạm quyền có hành vi gây đau đớn hoặc khổ đau nghiêm trọng về thể xác hoặc tinh thần cho người khác trong khi thi hành công vụ thì bị phạt tù từ 1 năm đến 3 năm.
2) Phạm tội trong trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm:
a) Đối với trẻ em, phụ nữ, người già hoặc người không có khả năng tự vệ;
b) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đến dưới 31%;
e) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
3) Phạm tội trong trường hợp sau đây thì bịphạt tù từ 5 năm đến 12 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho người khác từ 31% đến 61%;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.
4) Phạm tội trong trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho người khác trên 61%;
b) Làm chết người;
c) Gây hậu quả đặc nghiêm trọng khác.
5) Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.
Thứ hai,trong trường hợp nếu đã quy định Tội tra tấn người khác trong khi thi hành công vụ làm cấu thành chung, theo tác giả nên bãi bỏ Tội dùng nhục hình ở Điều 298 BLHS năm1999./.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung 2009)”
CHÚ THÍCH
* ThS. Luật học, giảng viên Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Sau đây gọi tắt là CAT.
[2] Điều 5: “Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm.
[3] Điều 7.
[4] Điều 19.
[5] GS.TSKH Đào Trí Úc, ThS. Vũ Công Giao, Pháp luật về chống tra tấn và những yêu cầu đặt ra trong qúa trình cải cách tư pháp tại địa chỉ website: http://crights.org.vn/home.asp?id=109&langid=1 (truy cập lúc 9h30 ngày 10/10/2014).
[6] LêThị Hồng Nhung (2011), “Tra tấn theo Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hay trừng phạt dã man, vô nhân đạo hay hạ nhục con người”, Nhà nước và Pháp luật, số 3, tr. 76.
[7] Khoản 1 Điều 1 Công ước quy định “thuật ngữ “tra tấn” có nghĩa là bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc khổ đau nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho một người, vì những mục đích như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe doạ hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ một lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi nỗi đau đớn và khổ đau đó do một công chức hay người nào khác hành động với tư cách chính thức gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận của một công chức. Khái niệm tra tấn không bao gồm những đau đớn hoặc đau khổ xuất phát từ, gắn liền với, hoặc có liên quan đến, các biện pháp trừng phạt hợp pháp”.
[8] Manfred Nowak, Elizabeth McArthur,… ; The United Nations Convention Against Tortute, A Commentary; Oxford University Press. tr. 28.
[9] LêThịHồng Nhung (2011),tlđd, tr. 76.
[10] Manfred Nowak, tlđd, tr. 28.
[11] Manfred Nowak, tlđd, tr. 66 – 73.
[12] Lê Thị Hồng Nhung (2011), tlđd,tr. 76.
[13] Manfred Nowak; tlđd, tr. 75.
[14] Manfred Nowak, Elizabeth McArthur,… ; tlđd,tr. 77-78.
[15] LêThị Hồng Nhung (2011), tlđd, tr. 81.
[16] Điều 4:
“1. Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng mọi hành vi tra tấn đều cấu thành tội phạm theo luật hình sự của nước mình. Điều này cũng áp dụng với những hành vi cố gắng thực hiện việc tra tấn hoặc hành vi của bất kỳ người nào đồng lõa hoặc tham gia việc tra tấn.
2. Mỗi Quốc gia thành viên phải trừng trị những tội phạm này bằng những hình phạt thích đáng tương ứng với tính chất nghiêm trọng của chúng.”
[17] Điều 298: Tội dùng nhục hình
“ 1. Người nào dùng nhục hình trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”
[18] Vụ 5 công an dùng nhục hình đánh chết người ở Phú Yên: Khởi tố Phó trưởng Công an TP.Tuy Hòa. Truy cập ngày 25/10/2014.
[19] Điều 292 BLHS quy định Khái niệm tội xâm phạm hoạt động tư pháp “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.
[20] Nghị quyết 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định Phần các tội phạm BLHS.
[21] Nghị quyết 04/HĐTP, tlđd.
[22] Nghị quyết 04/HĐTP, tlđd.
[23] Nghị quyết 04/HĐTP, tlđd.
[24] Điều 299: Tội bức cung
“1.Người nào tiến hành điều tra, truy tố, xét xử mà bằng các thủ đoạn trái pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.”
[25] Trường ĐH Luật Tp.HCM, TS Trần Thị Quang Vinh (chủ biên); Giáo trình Luật hình sự (Phần các Tội phạm – Quyển 2); Nxb Hồng Đức; tr. 292.
[26] Trường ĐH Luật Tp.Hồ Chí Minh, TS. Trần Thị Quang Vinh (chủ biên), tlđd, tr. 293.
[27] Nghị quyết 04/HĐTP, tlđd.
[28] Những vụ điều tra viên đánh đập, ép cung gây rúng động. Truy cập ngày 21/10/2014.
[29] Nghị quyết 04/HĐTP, tlđd.
[30] Trường Đại học Luật Hà Nội, BLHS CHLB Đức, Nxb. CAND, 2011. tr. 542.
Điều 343 Cưỡng ép khai báo
“ Người nào là nhà chức trách được tham gia vào
Một qúa trình tố tụng hình sự, một quá trình tố tụng để ra lệnh giữ của nhà đương cục
Một quá trình tố tụng xử phạt tiền hoặc
Một quá trình tố tụng kỷ luật hoặc một quá trình tố tụng của Tòa án danh dự hoặc của Tòa án nghề nghiệp
Mà hành hạ thể xác một người khác, dùng bạo lực khác với người đó, đe dọa với bạo lực hoặc làm đau đớn về tinh thần cho người đó, để ép buộc người đó khai báo hoặc khẳng định điều gì đó hoặc không thực hiện việc này trong quá trình tố tụng thì bị xử phạt với hình phạt tự do từ một năm đến 10 năm
1) Trong những trường hợp ít nghiêm trọng thì hình phạt là hình phạt tự do từ sáu tháng đến năm năm.”
[31] Trường Đại học Luật Hà Nội, BLHS Liên bang Nga, Nxb CAND, 2011. tr. 564.
Điều 302 Tội bức cung vànhục hình quyđịnh
“1. Điều tra viên, người tiến hành điều tra, cũng như những người im lặng đồng ý cho điều tra viên hay người tiến hành điều tra có hành vi cưỡng bức, ép buộc nghi can, bị can, nạn nhân, nhân chứng bằng ách đe dọa hay lăng mạ họ để đưa ra lời khai (theo Luật sửa đổi Liên bang ngày 8 tháng 12 năm 2003) thì bị phạt tù đến 3 năm
Cũng những hành vi trên, nếu có sử dụng vũ lực, nhạo báng, hoặc tra tấn thì bị phạt tù từ 2 năm đến 8 năm”
[32] Trường ĐH Luật Hà Nội, BLHS Liên bang Nga, Nxb. CAND, 2011. tr. 176.
Điều 117 Tội dùng nhục hình quy định trong Chương 16 Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe
“1. Gây đau khổ về thể xác và tinh thần cho người khác bằng cách thường xuyên hành hung hoặc bằng những hành vi vũ lực khác nếu như không gây ra những hậu quả như đã nêu tại các Điều 111 và 112 của Bộ luật này thì bị phạt hạn chế tự do đến 3 năm hoặc phạt tù cũng đến 3 năm (sửa đổi theo Luật liên bang ngày 7/12/2009)
2. Những hành vi trên nhưng được thực hiện
a) Đối với hai người trở lên
b) Đối với một người hoặc với những người thân của ngườiđótrong khi những ngườiđóđang thi hành công vụ hoặc thực hiện trách nhiệm xãhội;
c) Đối với phụ nữ mà rõ ràng người đó đang mang thai
d) Đối với người chưa thành niên hoặc người đang trong tình trạng không được trợ giúp hay người bị lệ thuộc về vật chất hoặc những lệ thuộc khác đối với người phạm tội cũng như đối với người bị chiếm đoạt hay bị bắt làmcon tin;
e) Có sử dụng nhục hình;
f) Bởi một nhóm người hoặc một nhóm người có bàn bạc từ trước, hay một băng, nhóm có tổ chức;
g) Theo hợp đồng thuê mướn;
h) Với động cơ hận thù về chính trị, tư tưởng, sắc tộc, hoặc vì động cơ hận thù đối với một nhóm xã hội nào đó thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm .”
[33] Trường Đại học Luật Hà Nội, BLHS Cộng hòa Liên bang Nga, Nxb CAND, 2011. tr. 176.
[34] Đinh Bích Hà– Bộ luật Hình sự của nước CHND Trung Hoa; Nxb. Tư Pháp Hà Nội 2007. tr. 164.
Điều 247
“ Nhân viên tư pháp mà tiến hành bức cung đối với bị can, bị cáo hoặc dùng vũ lực bức cung nhân chứng thì bị phạt tù đến 3 năm hoặc cải tạo lao động; nếu gây thương tích tàn tật hoặc làm chết người, thì bị xử phạt nặng theo quy định tại Điều 232 và Điều 234 Bộ luật này”.
Điều 248
“Nhân viên quản giáo của nhà tù, trại giam mà có hành vi đánh đập hoặc ngược đãi đối với những người bị giám quản, nếu có tình tiết nghiêm trọng thì bị phạt tù đến dưới 3 năm hoặc cải tạo lao động; nếu có tình tiết đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm; nếu gây thương tích, làm chết người thì bị xử phạt nặng theo quy định tại Điều 232 và Điều 234 Bộ luật này.
Nhân viên quản giáo ra lệnh cho người bị giám quản đánh đập hoặc ngược đãi người bị giám quản khác thì bị xử phạt theo quy định trên”.
Tác giả: Nguyễn Thị Ánh Hồng* – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số Đặc san 03/2014 – 2014, Trang 26-37
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời