Mục lục
Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) chính là sự tiếp tục thể chế hóa nội dung của Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là: “Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” và thể hiện rõ hơn những quy định về quyền con người được quy định tại Hiến pháp 2013.
Như vậy, Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) tiếp tục thu hẹp số tội danh áp dụng hình phạt tử hình xuống còn 18 tội, chiếm tỷ lệ 5,73% trong tổng số 314 tội danh được quy định trong Bộ luật, thuộc 7/14 nhóm tội phạm; giảm 11 tội danh so với Bộ luật hình sự năm 1999 và giảm 4 tội danh so với Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009).
Xem thêm bài viết về “Hình phạt”
- Quy định Bộ luật Hình sự 2015 về hình phạt Cải tạo không giam giữ – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Một số ý kiến về quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể theo Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. Mai Thị Thủy
- Nguyên tắc và căn cứ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Các hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Hoàn thiện chính sách hình phạt trong quy định của Bộ luật Hình sự 2015 theo tinh thần của các Công ước quốc tế về quyền con người – ThS. Nguyễn Thị Ánh Hồng
1. Phần chung của Bộ luật hình sự
Điều 40 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định về hình phạt tử hình có những thay đổi như sau:
“1. Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định.
2. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.
3. Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;
b) Người đủ 75 tuổi trở lên;
c) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.
4. Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân”.
1.1. Thu thẹp phạm vi áp dụng hình phạt tử hình
Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) đã sửa đổi, bổ sung điều kiện áp dụng hình phạt tử hình theo hướng thu hẹp phạm vi áp dụng; các điều kiện áp dụng được quy định chặt chẽ hơn; mở rộng đối tượng không áp dụng, không thi hành đối với hình phạt này.
Về loại tội: Chỉ áp dụng đối với một số tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người; các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật hình sự quy định.
Về đối tượng: Chỉ áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn theo nguyên tắc: “Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” (Điều 3 Bộ luật hình sự 2015)
1.2. Mở rộng diện đối tượng không bị áp dụng hình phạt tử hình
Bộ luật hình sự đã mở rộng diện đối tượng không bị áp dụng hình phạt tử hình và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân nhằm góp phần hạn chế hình phạt tử hình trên thực tế (Điều 40 Bộ luật hình sự năm 2015) theo hướng ngoài những đối tượng như quy định hiện hành (người chưa thành niên và phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi), bổ sung thêm đối tượng không bị áp dụng hình phạt gồm:
– Người từ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử. Việc bổ sung đối tượng này vào diện không bị áp dụng hình phạt tử hình thể hiện chính sách hình sự nhân đạo đối với một đối tượng được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước trong số những người cao tuổi, đó là những người đã đến tuổi thượng thọ mà theo Luật Người cao tuổi được hưởng chế độ chúc thọ, mừng thọ của Nhà nước; được đặc cách hưởng chính sách bảo trợ xã hội.
– Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản hoặc tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động khắc phục cơ bản hậu quả của tội phạm do mình gây ra, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Quy định này nhằm khuyến khích người phạm tội tham nhũng khắc phục hậu quả, nộp lại tiền cho Nhà nước.
1.3. Chuyển hình phạt tử hình sang tù có thời hạn trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội Bộ luật hình sự 2015 đã quy định “hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các điều luật cụ thể” thay vì quy định chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù có thời hạn; đối với trường hợp phạm tội chưa đạt mà điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình đã quy định thành chuyển sang áp dụng hình phạt tù có thời hạn (Điều 57) thay vì quy định “chỉ có thể áp dụng hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng”.
Xem thêm bài viết về “Tử hình”
2. Phần các tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự
2.1. BLHS 2015 bỏ hình phạt tử hình đối với 7 tội danh
Trên tinh thần quán triệt tư tưởng cải cách tư pháp, bám sát các tiêu chí cũng như điều kiện áp dụng hình phạt tử hình nêu trên, bảo đảm sự kết hợp hài hòa, cân đối giữa yêu cầu bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là quyền sống theo tinh thần Hiến pháp mới năm 2013 và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời, thể hiện sự thận trọng cần thiết trong việc bỏ hình phạt tử hình đối với từng tội danh cụ thể, Bộ luật hình sự 2015 bỏ hình phạt tử hình đối với 07 trong số 22 tội danh có quy định hình phạt tử hình trong Bộ luật hình sự 1999.
Đó là các tội:
- Cướp tài sản;
- Sản xuất, buôn bán hàng giả là thực phẩm, phụ gia thực phẩm;
- Tàng trữ trái phép chất ma túy;
- Chiếm đoạt chất ma túy;
- Phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia;
- Chống mệnh lệnh;
- Đầu hàng địch.
2.1.1. Đối với tội cướp tài sản (Điều 133 Bộ luật hình sự 1999)
Cướp tài sản là một trong ba tội phạm nghiêm trọng nhất trong số các tội xâm phạm sở hữu. Bản chất của tội này là tước đoạt quyền sở hữu của người khác bằng vũ lực hoặc bằng các hành động khác tấn công nạn nhân làm cho họ không thể chống cự được.
Vì vậy, trong khi thực hiện hành vi cướp tài sản, người phạm tội có thể gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của nạn nhân.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, đây là tội xâm phạm quyền sở hữu của người khác, đối tượng chính bị xâm hại ở đây là tài sản.
Mục đích của người phạm tội này là chiếm đoạt tài sản của người khác chứ không phải là xâm phạm tính mạng, sức khỏe. Việc gây thương tích hoặc làm chết người khi thực hiện hành vi cướp không nằm trong ý định chủ quan của người phạm tội cướp.
Hơn nữa, không phải mọi trường hợp phạm tội cướp tài sản đều gây chết người, do vậy, việc áp dụng hình phạt tù chung thân đối với tội phạm này là đủ nghiêm khắc cũng tương tự như trường hợp cố ý gây thương tích dẫn đến chết nhiều người quy định tại khoản 4 Điều 104 của Bộ luật hình sự.
Nếu chứng minh được người phạm tội có ý định tước đoạt sinh mạng của nạn nhân thì có thể xử lý về tội giết người mà hình phạt cao nhất là tử hình. Trong thực tế, Tòa án xét xử các vụ án giết người, cướp tài sản thì thường tuyên tử hình đối với tội giết người và tổng hợp hình phạt chung là tử hình.
2.1.2. Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thực phẩm, phụ gia thực phẩm
Khi kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì hành vi phạm tội trong lĩnh vực kinh tế sẽ ngày càng tăng tuy nhiên có thể dù tăng về số lượng nhưng mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội này không quá cao và cũng là tạo điều kiện cho môi trường kinh tế phát triển hơn thì hình phạt tử hình được bỏ đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thực phẩm, phụ gia thực phẩm.
2.1.3. Đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội chiếm đoạt chất ma túy
Thực tiễn cho thấy số án tử hình mà các Tòa án đã tuyên trong thời gian vừa qua chủ yếu tập trung vào tội giết người và tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý. Do vậy, để góp phần giảm án tử hình trên thực tế, bên cạnh việc bỏ 07 tội danh như đã nêu trên, Bộ luật hình sự đã sửa đổi quy định của Bộ luật hình sự 1999 về hai tội danh này theo hướng hạn chế các trường hợp áp dụng hình phạt tử hình.
Bộ luật hình sự 2015 đã sửa đổi Điều 194 của Bộ luật hình sự 1999 về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý theo hướng tách riêng thành 04 tội danh khác nhau (các điều 249, 250, 251, 252) trong đó chỉ giữ lại hình phạt tử hình đối với tội mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250; 251), còn đối với các tội danh khác (tàng trữ trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý) thì mức phạt cao nhất là tù chung thân.
2.1.4. Đối với tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231 Bộ luật hình sự 1999):
Theo Bộ luật hình sự năm 1985 thì đây là một trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Đến Bộ luật hình sự năm 1999, tội phạm này được chuyển về Chương các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Như vậy, đã có sự chuyển đổi về khách thể xâm hại từ an ninh quốc gia sang trật tự, an toàn xã hội và do vậy, tầm quan trọng và yêu cầu bảo vệ khách thể đối với tội này cũng đã có sự thay đổi không còn ở mức cao như trước đây.
Hơn nữa, đối tượng xâm hại của tội này là tài sản dưới dạng các công trình, phương tiện có tầm quan trọng về an ninh quốc gia, trước đây đều thuộc sở hữu Nhà nước nên có chính sách xử lý nghiêm khắc hơn, nhưng nay thuộc nhiều sở hữu của các thành phần kinh tế khác nhau mà về nguyên tắc, phải được bảo vệ như nhau. Do vậy, hình phạt tù chung thân đối với tội phạm này là đủ nghiêm khắc. Ngoài ra, thực tiễn cũng cho thấy, trong khoảng gần 10 năm trở lại đây, các Tòa án không áp dụng hình phạt tử hình đối với những người phạm tội này.
Việc bỏ tử hình đối với tội danh này không khó khăn cho chúng ta trong việc xử lý tội phạm, bởi lẽ, trong một số trường hợp nhất định, người thực hiện hành vi phá hủy công trình, phương tiện có tầm quan trọng về an ninh quốc gia có thể bị xử lý về các tội phạm tương ứng trong Bộ luật hình sự, ví dụ: tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước CHXHCN Việt Nam (Điều 85); tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 84) hoặc tội khủng bố (Điều 230a) là những tội có quy định hình phạt tử hình.
2.1.5. Đối với tội chống mệnh lệnh (Điều 316 Bộ luật hình sự 1999) và tội đầu hàng địch (Điều 322 Bộ luật hình sự 1999):
Đây là các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nhưng hậu quả mà hành vi phạm tội này gây ra sau đó có thể không nằm trong ý muốn chủ quan của người phạm tội, thậm chí có trường hợp khi thực hiện các hành vi này, bản thân người phạm tội chưa hình dung được hết những hậu quả mà hành vi phạm tội của mình có thể gây ra. Trong trường hợp chứng minh được rằng, các hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đó nằm trong ý muốn chủ quan của người phạm tội thì có thể hành vi phạm tội của họ đã vượt ra ngoài phạm vi tội chống mệnh lệnh hoặc đầu hàng địch. Khi đó sẽ kết hợp xử lý về các tội phạm khác có liên quan.
Mặt khác, xét về khía cạnh tâm lý, trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh, cận kề giữa cái sống, cái chết, con người rất có thể có những giây phút hèn nhát (ví dụ: vì sợ chết mà chống mệnh lệnh không thực hiện nhiệm vụ chiến đấu được giao hoặc vì sợ chết mà đầu hàng địch), nếu được mở thêm một con đường sống (không tử hình) thì bản thân người phạm tội có cơ hội để sám hối lỗi lầm của mình, vì đồng đội mà không làm liều, góp phần hạn chế được hậu quả lớn hơn có thể xảy ra.
Hơn nữa, tội chống mệnh lệnh và tội đầu hàng địch chủ yếu xảy ra trong thời chiến và khi đó hậu quả của nó sẽ cực kỳ nghiêm trọng, còn trong điều kiện thời bình như hiện nay thì hậu quả của hành vi phạm tội này cũng có mức độ, không giống như thời chiến.
Do vậy, hình phạt tù chung thân đối với các tội phạm này là đủ nghiêm khắc mà không cần thiết phải tước đi sinh mạng của người phạm tội.
Hơn nữa, theo Báo cáo số 3870/BQP-VPC ngày 07 tháng 12 năm 2012 của Bộ Quốc phòng về Tổng kết 11 năm thi hành Bộ luật hình sự thì trong những năm qua các Tòa án quân sự chỉ áp dụng hình phạt tử hình đối với hai tội là: tội gián điệp và tội giết người. Còn đối với các tội phạm khác mặc dù có quy định hình phạt tử hình nhưng các Tòa án quân sự không áp dụng.
2.1.6. Đối với tội hoạt động phỉ
Bộ luật hình sự năm 2015 cũng đã bỏ tội danh hoạt động phỉ trước đây có quy định hình phạt tử hình.
2.2. Những tội danh còn duy trì hình phạt tử hình theo BLHS 2015
Những tội danh còn duy trì hình phạt tử hình theo Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) cụ thể như sau:
2.2.1. Nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia
An ninh quốc gia là một loại khách thể của tội phạm được Luật hình sự đặt nhiệm vụ bảo vệ lên hàng đầu, điều này đã được xác định ngay tại Điều 1 của Bộ luật hình sự 2015. Đây là khách thể quan trọng cần được bảo vệ vì “an ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc” (Điều 3 Luật an ninh quốc gia năm 2004).
Khi an ninh quốc gia bị tội phạm xâm hại thì sẽ gây nguy hại thậm chí dẫn đến nguy cơ xóa bỏ quan hệ xã hội đang thống trị của đất nước.
Chính vì vậy, các tội xâm phạm an ninh quốc gia là các tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, cho đất nước cần phải trừng trị bằng hình phạt nghiêm khắc nhất là tử hình. Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), các tội xâm phạm an ninh quốc gia được quy định tại Chương XIII, với 15 điều luật trong đó có 14 điều luật về tội danh (từ Điều 108 đến Điều 121) và 01 điều quy định hình phạt bổ sung (Điều 112), chiếm 43% hành vi phạm tội trong chương này có mức hình phạt cao nhất là tử hình (06/14 Điều luật). Tỷ lệ này thấp hơn so với Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) chiếm 50% hành vi phạm tội trong chương có mức hình phạt cao nhất là tử hình (06/14 Điều luật).
Bao gồm:
- Tội phản bội tổ quốc (Điều 108).
- Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109).
- Tội gián điệp (Điều 110).
- Tội bạo loạn (Điều 112).
- Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113).
- Tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 114)
2.2.2. Nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.
Con người là chủ thể của nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau nên bất cứ hành vi nào xâm phạm đến quan hệ xã hội làm biến đổi tình trạng bình thường của con người như quan hệ nhân thân bao gồm: tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người đều bị Nhà nước xử lý nghiêm khắc tùy vào mức độ của hành vi, vì đây cũng là đối tượng được Nhà nước quan tâm bảo vệ.
Trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người được quy định tại Chương XIV với 34 điều luật (từ Điều 123 đến Điều 156), trong đó có 02 điều luật có mức hình phạt cao nhất là tử hình chiếm tỷ lệ 6% trên tổng số tội danh của chương. Bao gồm:
– Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142).
– Tội giết người (Điều 123).
2.2.3. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Để khuyến khích phát triển kinh tế, pháp luật hình sự nước ta đã có phần bớt nghiêm khắc đối với các tội phạm kinh tế, tuy nhiên có một số hành vi phạm tội trong lĩnh vực kinh tế mà hậu quá của nó liên quan sức khỏe của con người – những nhân tố để phát triển xã hội thì buộc nhà nước vẫn phải duy trì mức hình phạt cao nhất.
Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được quy định tại Chương XVIII với 46 điều luật (từ Điều 188 đến Điều 234) trong đó có 01 (chiếm tỷ lệ 2%) điều luật quy định hành vi phạm tội có chế tài cao nhất là tử hình, đó là Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194).
2.2.4. Nhóm tội phạm về ma túy
Tệ nạn xã hội nhức nhối nhất hiện nay chính là tệ nạn có liên quan đến ma túy, tác hại của ma túy hết sức nguy hiểm vì không những nó phá hủy nhận thức bình thường và sức khỏe về mặt sinh học của một con người mà còn là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác cho xã hội. Chính vì vậy những hành vi phạm tội liên quan tới ma túy được xem là nguy hiểm cho xã hội nên mức hình phạt cũng rất cao.
Các tội phạm về ma túy được quy định tại Chương XX của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) gồm 12 điều luật (từ Điều 247 đến Điều 259), đó có 03 điều luật quy định hành vi phạm tội có chế tài cao nhất là tử hình chiếm tỷ lệ 25% tổng số điều luật về tội danh của chương, đó là:
- Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248).
- Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250).
- Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251).
2.2.5. Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng được quy định tại Chương XXI của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) gồm 69 điều luật (từ Điều 260 đến Điều 329), trong đó chỉ còn 01 điều luật quy định hành vi phạm tội có chế tài cao nhất là tử hình, đó là: Tội khủng bố (Điều 299).
2.2.6. Nhóm tội phạm về chức vụ
Chủ thể của nhóm tội này là các cán bộ, công chức hoạt động trong bộ máy nhà nước, khi họ phạm tội thì sẽ xâm phạm đến hoạt động đúng đắn nhằm thực hiện việc quản lý đất nước của cơ quan nhà nước. Cán bộ, công chức nhà nước là những người phải đáp ứng nhiều tiêu chí để thực hiện nhiệm vụ của mình, tuy nhiên khi phát sinh hành vi phạm tội thì sẽ gây ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước và người dân, gây thiệt hại cho hoạt động của nhà nước.
Các tội phạm về chức vụ được quy định tại Chương XXI của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) gồm 14 điều, trong đó có 13 điều luật quy định về các tội phạm (từ Điều 353 đến Điều 366), 01 điều luật quy định khái niệm tội phạm về chức vụ (Điều 352). Trong số 13 điều luật quy định về các tội phạm có 02 điều luật (chiếm 15%) quy định hành vi phạm tội có chế tài cao nhất là tử hình, đó là:
- Tội tham ô tài sản (Điều 353).
- Tội nhận hối lộ (Điều 354).
2.2.7. Nhóm tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh
Hòa bình là mục tiêu không chỉ Việt Nam mà toàn nhân loại đều hướng, hơn ai hết người dân Việt Nam hiểu rõ giá trị của hòa bình ngày nay như thế nào vì đã đổ xương máu của bao thế hệ đi trước mới có được. Vì vậy những hành vi phạm tội có nguy cơ đe dọa đến hòa bình và những hành vi phạm tội làm hủy hoại con người phải bị áp dụng hình phạt nghiêm khắc nhất.
Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh được quy định tại Chương XXVI của năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có 05 điều luật (từ Điều 421 đến Điều 425). Trong đó có 03 điều luật quy định hành vi phạm tội có chế tài cao nhất là tử hình, chiếm 60% số tội phạm trong chương này. Bao gồm:
Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 421).
Tội chống loài người (Điều 422).
Tội phạm chiến tranh (Điều 423)./.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017)”
- Quy định Bộ luật Hình sự 2015 về hình phạt Cải tạo không giam giữ – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quy định của Bộ luật Hình sự 2015 về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quy định về biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh theo Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quy định mới về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật Hình sự 2015 – PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ
- Dấu hiệu pháp lý Tội chứa mại dâm theo Bộ luật Hình sự 2015 – LS. Nguyễn Lan Anh
Trả lời