Mục lục
Góp ý Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án hình sự 2010 về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ
TÓM TẮT
Trong phạm vi bài, tác giả trình bày một số góp ý cho Luật Thi hành án hình sự (THAHS) và Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật THAHS về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ cho phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của pháp luật hình sự quốc tế và một số nước.
Xem thêm bài viết về “Cải tạo không giam giữ”
- Quy định Bộ luật Hình sự 2015 về hình phạt “Cải tạo không giam giữ” – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
Hình phạt cải tạo không giam giữ đóng vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt, là một trong những yếu tố mang lại sự đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Hiệu quả của việc thi hành hình phạt này phụ thuộc vào sự hỗ trợ của cộng đồng. Trên thực tế, hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng với một tỷ lệ rất hạn chế và quá trình thi hành hình phạt này chưa có nhiều minh chứng cho tính hiệu quả của hình phạt. Điểm mới của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về hình phạt cải tạo không giam giữ tập trung vào phạm vi, điều kiện áp dụng cũng như nghĩa vụ pháp lý của người bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ và sự cụ thể hóa trong các quy định của Phần các tội phạm. Trong đó các quy định về nghĩa vụ pháp lý của người bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ cần phải được quy định trong Luật THAHS.
Nhằm cụ thể hóa quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và khắc phục các hạn chế trong thực tiễn áp dụng, Luật THAHS năm 2010 cần được sửa đổi, bổ sung các quy định về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ.
1. Các hạn chế, vướng mắc trong Luật Thi hành án hình sự và Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án hình sự về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ
Luật THAHS quy định trình tự, thủ tục, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền trong thi hành bản án về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ từ Điều 72 đến Điều 81. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THAHS sửa đổi khái niệm thi hành án phạt cải tạo không giam giữ ở Điều 3, sửa đổi Điều 73, 74 và bổ sung Điều 75a về Giải quyết trường hợp người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ không có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan THAHS Công an cấp huyện, cơ quan THAHS cấp quân khu.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật THAHS đã có một số sửa đổi, bổ sung về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ nhằm khắc phục các hạn chế của Luật THAHS năm 2010. Cụ thể như quy định về thời điểm chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Theo Mục 3 Điều 2 Nghị quyết số 02/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cho Luật THAHS năm 2010 thì “Thời điểm bắt đầu tính thời gian cải tạo không giam giữ là ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Thời điểm bắt đầu tính thời gian cải tạo không giam giữ phải được tuyên trong phần quyết định của bản án”. Đây là một hướng dẫn quan trọng nhằm đảm bảo việc áp dụng thống nhất quy định của Luật THAHS năm 2010 vì Luật THAHS năm 2010 và Điều 31 BLHS năm 1999 không quy định cụ thể thời điểm chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật THAHS đã bổ sung quy định này tại khoản 4 Điều 73 như sau: “Thời điểm bắt đầu chấp hành án được tính từ ngày cơ quan THAHS Công an cấp huyện, cơ quan THAHS cấp quân khu bàn giao hồ sơ cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án. Thời hạn tạm giữ, tạm giam (nếu có) được tính vào thời gian đã chấp hành án, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam được tính bằng 03 ngày chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ”. Quy định này nhằm xác định trách nhiệm bàn giao hồ sơ thi hành án của cơ quan THAHS Công an cấp huyện, cơ quan THAHS cấp quân khu, đồng thời nhằm đảm bảo hiệu quả của việc giám sát, giáo dục người bị kết án. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cần có văn bản hướng dẫn chặt chẽ quy trình này. Quãng thời gian từ thời điểm cơ quan THAHS Công an cấp huyện, cơ quan THAHS cấp quân khu nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án đến khi bàn giao hồ sơ cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án được xác định như thế nào? Nếu cơ quan THAHS Công an cấp huyện, cơ quan THAHS cấp quân khu cố tình trì hoãn hoặc không làm hết trách nhiệm thì có thể dẫn đến bản án hết thời hiệu thi hành hoặc gây bất lợi cho người phạm tội vì bản án đã có hiệu lực thi hành nhưng họ chưa được chấp hành. Trên thực tế, trong các bản án tuyên bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ thì thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được xác định cũng không thống nhất. Có trường hợp tính từ ngày ra quyết định thi hành án,[1] hoặc tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục bị cáo nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.[2] Tuy nhiên, việc quy định thời hạn tạm giữ, tạm giam nếu có được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là không cần thiết vì điều này đã được quy định tại khoản 1 Điều 36 BLHS năm 2015.
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu quy định về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ trong Luật THAHS và Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật THAHS, chúng tôi nhận thấy còn tồn tại các hạn chế, vướng mắc sau:
Thứ nhất, Dự thảo chưa khắc phục hạn chế của Luật THAHS năm 2010 khi chưa có điều luật quy định nguyên tắc chung của việc thi hành các hình phạt, các biện pháp không giam giữ.
Thứ hai, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật THAHS bổ sung Điều 75a. Giải quyết trường hợp người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ không có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu.[3] Dự thảo quy định khá chi tiết nhưng chưa quy định triệt để về việc người chấp hành án không có mặt theo giấy triệu tập khi giải pháp cuối cùng chỉ là lập biên bản người chấp hành án vi phạm nghĩa vụ chấp hành án khi mà hồ sơ thi hành án chưa được lập và thời điểm chấp hành án chưa được tính.
Thứ ba, Dự thảo chưa quy định đầy đủ về quá trình thi hành các nghĩa vụ nộp phần khấu trừ thu nhập và thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng mà người chấp hành án phải thực hiện.
Người bị kết án cải tạo không giam giữ bị khấu trừ thu nhập từ 5% đến 20% thu nhập. Luật Thi hành án và Dự thảo chưa quy định cụ thể cơ quan chịu trách nhiệm khấu trừ. Tuy nhiên, điểm e khoản 1 Điều 74 Luật THAHS quy định nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án có quy định là “Phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự thực hiện khấu trừ một phần thu nhập của người chấp hành án theo quyết định của Toà án để sung quỹ nhà nước”.
BLHS năm 2015 bổ sung quy định về nghĩa vụ thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian chấp hành hình phạt đối với người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt. Luật THAHS cần có các quy định liên quan về cơ quan có thẩm quyền quyết định việc thực hiện lao động công cộng, tổng số giờ mà người bị kết án phải thực hiện và các công việc lao động công cộng cụ thể. Dự thảo chưa có các quy định cụ thể quá trình thi hành các nghĩa vụ này.
Thứ tư, một vấn đề xảy ra trên thực tế làm giảm hiệu quả của hình phạt cải tạo không giam giữ là vấn đề xử lý trong trường hợp người chấp hành án vi phạm các nghĩa vụ trong quá trình chấp hành án. Theo quy định của Luật Thi hành án thì chỉ xử lý bằng hình thức kiểm điểm và hậu quả pháp lý là chỉ ảnh hưởng đến việc xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Thậm chí nếu người phạm tội không đến trình diện cơ quan thi hành án thì giải quyết như thế nào? Luật THAHS và Dự thảo chưa có các quy định cụ thể về việc xử lý người chấp hành án không đến trình diện cơ quan thi hành án hoặc không chấp hành các nghĩa vụ cụ thể.
Thứ năm, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và gia đình trong việc giám sát, giáo dục người phạm tội. Điều 74 và Điều 81 Luật THAHS quy định khá đầy đủ, rõ ràng nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát người chấp hành án. Các cơ quan, tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn sau khi nhận được bàn giao việc giám sát thường gặp khó khăn về hình thức quản lý. Nơi thì giao việc giám sát, giáo dục người bị kết án cho cơ quan tư pháp, nơi lại giao cho công an xã. Không hiếm những trường hợp tại thời điểm Tòa giao hồ sơ thì người bị kết án đã không có mặt ở địa phương. Họ đi đâu, ở đâu, làm gì, địa phương không rõ và Tòa cũng không thể biết. Những trường hợp này việc giao và nhận để giám sát, giáo dục đối với người bị kết án vẫn còn rất hình thức nên cần phải có quy định cụ thể.
Thứ sáu, hình phạt cải tạo không giam giữ về bản chất là hình phạt mang tính chất cộng đồng, quá trình chấp hành hình phạt của người phạm tội dựa trên sự thay đổi của chính bản thân của người bị kết án dưới sự giám sát, hỗ trợ của cộng đồng bao gồm cả chính quyền địa phương, cơ quan làm việc trường học và cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, quy định của Luật THAHS và Dự thảo chưa xây dựng được cơ chế thi hành án phạt cải tạo không giam giữ nhằm phát huy sự hỗ trợ của cộng đồng.
Thứ bảy, về mặt kỹ thuật, Dự thảo đã bổ sung thêm rất nhiều điều luật dẫn đến quy định tổng thể của Luật bị ảnh hưởng, mất tính liên kết hệ thống trong quy định.
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Dự thảo Luật THAHS về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ
Hình phạt cải tạo không giam giữ nói riêng và các hình phạt cộng đồng (community penalties) đóng vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt của nhiều nước và được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Quá trình thi hành các hình phạt này cũng nhận được sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế. Quy tắc chuẩn, tối thiểu của Liên hợp quốc về những biện pháp không giam giữ (Các quy tắc Tokyo) năm 1990 đã khuyến nghị các nguyên tắc nhất định trong quá trình thi hành các biện pháp này nhằm phát huy hiệu quả của các biện pháp và bảo đảm quyền con người của người bị kết án. Theo đó, chú trọng các vấn đề như giám sát; thời hạn; các điều kiện; quá trình cải tạo tội phạm; kỷ luật và hành vi vi phạm các điều kiện quy định.[4] Đây được xem là các nguyên tắc quan trọng mà Việt Nam có thể tham khảo khi quy định về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ.
Trên cơ sở phân tích các hạn chế trong Luật THAHS và Dự thảo, bài viết đưa ra một số góp ý cho Dự thảo Luật sửa đổi Luật THAHS về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ cho phù hợp với quy định của BLHS năm 2015 trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của pháp luật hình sự quốc tế và một số nước.
Thứ nhất, ngoài các nguyên tắc chung quy định tại Điều 4 Luật THAHS, cần bổ sung và vận dụng nhất quán nguyên tắc thi hành án phạt cải tạo không giam giữ vào trong luật và cụ thể hóa vào trong từng quy định cụ thể theo các chuẩn mực pháp lý quốc tế. Các nguyên tắc quan trọng đã được khuyến nghị trong Các quy tắc Tokyo cần được cụ thể hóa vào trong luật như: mục đích của việc giám sát, giáo dục người bị kết án cải tạo không giam giữ là nhằm giảm khả năng tái phạm và giúp đỡ người phạm tội hòa nhập vào xã hội theo cách giảm thiểu khả năng phạm tội trở lại; cần xác định loại hình giám sát và xử lý phù hợp nhất cho từng trường hợp nhằm giúp đỡ người phạm tội nhìn nhận lại hành vi phạm tội của mình. Sự giám sát và xử lý cần được xem xét định kỳ và điều chỉnh khi cần thiết. Khi cần thiết, phải hỗ trợ về các mặt tâm lý, xã hội và vật chất cho người phạm tội nhằm tạo cơ hội để họ củng cố các mối liên hệ với cộng đồng, đồng thời tạo điều kiện để họ tái hòa nhập xã hội; tận dụng và phát huy tối đa sự hỗ trợ của cộng đồng trong việc giám sát, giáo dục người bị kết án. Các nguyên tắc này cần được vận dụng nhất quán cho cả trường hợp thi hành án treo; hình phạt bổ sung quản chế, cấm cư trú; giám sát, giáo dục người được tha tù trước thời hạn có điều kiện; biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn cho người dưới 18 tuổi phạm tội.
Do vậy, về cấu trúc có thể quy định chung việc thi hành các biện pháp này chung trong một phần và quy định điều luật về nguyên tắc thi hành vì về bản chất đây là các biện pháp mang tính chất giám sát, giáo dục người bị kết án tại cộng đồng. Cụ thể: sửa đổi tên Điều 4 Luật THAHS là Nguyên tắc chung thi hành án hình sự, và quy định điều luật về nguyên tắc thi hành án phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt quản chế, cấm cư trú, án treo, tha tù trước thời hạn có điều kiện và biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn cho người dưới 18 tuổi phạm tội.
Mục … Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt quản chế, cấm cư trú, án treo, tha tù trước thời hạn có điều kiện và biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn cho người dưới 18 tuổi phạm tội.
Điều … Nguyên tắc thi hành
- Mục đích của việc giám sát, giáo dục người bị kết án là nhằm giảm khả năng tái phạm và giúp đỡ người bị kết hòa nhập vào xã hội theo cách giảm thiểu khả năng phạm tội trở lại.
- Việc giám sát, giáo dục người bị kết án phải do cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thực hiện theo các điều kiện cụ thể do pháp luật quy định.
- Việc giám sát, giáo dục cần phù hợp nhất cho từng trường hợp nhằm giúp đỡ người phạm tội nhìn nhận lại hành vi phạm tội của mình. Sự giám sát và xử lý cần được xem xét định kỳ và điều chỉnh khi cần thiết.
- Khi cần thiết, phải hỗ trợ về các mặt tâm lý, xã hội và vật chất cho người phạm tội nhằm tạo cơ hội để họ củng cố các mối liên hệ với cộng đồng đồng thời tạo điều kiện để họ tái hòa nhập xã hội.
- Cơ quan có thẩm quyền có thể huy động sự tham gia của cộng đồng và các hệ thống hỗ trợ xã hội vào quá trình thi hành các biện pháp giám sát, giáo dục người bị kết án.
Thứ hai, quy định thời điểm bắt đầu chấp hành án được tính từ ngày cơ quan THAHS Công an cấp huyện, cơ quan THAHS cấp quân khu bàn giao hồ sơ cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án nhằm xác định trách nhiệm bàn giao hồ sơ thi hành án của cơ quan THAHS nhằm đảm bảo hiệu quả của việc giám sát, giáo dục người bị kết án. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ bảo đảm quyền của người bị kết án, quy định về thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ có thể theo hướng có lợi nhất cho người phạm tội và phù hợp với quy định của BLHS, không nên vì e ngại người bị kết án không ra trình diện mà quy định theo hướng bảo đảm hoạt động cho cơ quan thi hành án. Cần lưu ý rằng Tòa chỉ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ cho bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, không có dấu hiệu bỏ trốn. Do vậy, nếu quy định thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở vì về bản chất hình phạt cải tạo không giam giữ chủ yếu dựa trên việc tự cải tạo của chính người bị kết án, và việc giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương mang tính chất hỗ trợ, giám sát cho quá trình này. Việc tự cải tạo của người phạm tội không phải chỉ bắt đầu khi chính quyền địa phương tiếp nhận hồ sơ thi hành án mà từ khi bản án có hiệu lực pháp luật người bị kết án đã phải có ý thức tuân thủ các quyết định, yêu cầu của cơ quan thi hành án. Nếu người phạm tội không trình diện tại cơ quan thi hành án cấp huyện, cơ quan thi hành án quân khu hoặc không có mặt tại Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án được xem là hành vi không chấp hành án hoặc hành vi vi phạm nghĩa vụ chấp hành án. Quy định thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật có thể nâng cao hơn trách nhiệm chấp hành các nghĩa vụ của người bị kết án, đảm bảo thời gian chấp hành hình phạt cho người phạm tội được nhanh chóng, tránh sự trì hoãn do thủ tục hành chính đồng thời thúc đẩy trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền nhanh chóng thực hiện các thủ tục hành chính để giám sát, giáo dục người phạm tội. Bên cạnh đó, quy định về việc trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tại Dự thảo là không cần thiết vì đây là nội dung quy định của BLHS (Điều 36 BLHS năm 2015) và việc trừ thời gian tạm giữ, tạm giam đã do Hội đồng xét xử quyết định trong bản án.
Theo đó, có thể sửa đổi khoản 4 Điều 73 Luật THAHS như sau:
“Thời điểm bắt đầu chấp hành án được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.”
Thứ ba, quy định về việc thi hành khấu trừ thu nhập cho người bị kết án cải tạo không giam giữ theo hướng Tòa án quyết định hình thức khấu trừ và cách thức thi hành trong quyết định thi hành án. Cụ thể như, nếu khấu trừ bằng mức cụ thể thì yêu cầu người bị kết án nộp tiền tại kho bạc và xuất trình biên lai cho Ủy ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm giám sát, giáo dục. Nếu khấu trừ phần trăm thu nhập hàng tháng thì Cơ quan thi hành án cấp huyện, cơ quan thi hành án quân khu yêu cầu cơ quan nơi người đó làm việc trích phần thu nhập nộp vào ngân sách nhà nước. Nếu theo hướng giao cho cơ quan thi hành án dân sự thi hành việc khấu trừ thu nhập thì cần quy định trong Luật vì Điều 1 Phạm vi điều chỉnh của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) không quy định cụ thể.
Theo đó, bổ sung khoản 5 Điều 73 như sau:
“5. Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện, cơ quan thi hành án quân sự cấp quân khu chịu trách nhiệm thi hành phần khấu trừ thu nhập người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ”.
Thứ tư, bổ sung quy định trách nhiệm của cơ quan THAHS cấp huyện, cơ quan THAHS cấp quân khu, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục trong việc tổ chức thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian chấp hành hình phạt đối với người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt. Trong đó, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội chịu trách nhiệm đề xuất các công việc cụ thể, và cơ quan THAHS cấp huyện, cơ quan THAHS cấp quân khu chấp thuận và giám sát việc tổ chức thực hiện. Các công việc lao động phục vụ cộng đồng cụ thể cần xem xét trên nhu cầu của địa phương và điều kiện, hoàn cảnh của người bị kết án.
Theo đó, bổ sung tại khoản 1 Điều 74 Luật THAHS về Nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án như sau:
“1….
Trên cơ sở đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, Cơ quan THAHS cấp huyện, cơ quan THAHS cấp quân khu quyết định các công việc lao động phục vụ cộng đồng cụ thể, số giờ lao đối với người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt. Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện quyết định của cơ quan THAHS cấp huyện, cơ quan THAHS cấp quân khu.
….”
Thứ năm, đề xuất hướng nghiên cứu trong thời gian tới cần xây dựng một hệ thống cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm thi hành các hình phạt, biện pháp mang tính cộng đồng nhằm chuyên môn hóa hoạt động của các cơ quan này. Đây là hướng nghiên cứu rất cần thiết phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp theo hướng mở rộng, gia tăng và nâng cao hiệu quả của hình phạt cải tạo không giam giữ nói riêng và các biện pháp không giam giữ nói riêng. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới là thành lập các trung tâm quản chế xuyên suốt, thống nhất từ trung ương đến địa phương thậm chí ở cấp độ châu lục nhằm hỗ trợ cũng như giám sát hiệu quả người bị kết án. Bên cạnh đó, cần tiếp tục nghiên cứu về cách thức gia tăng sự hỗ trợ của cộng đồng vào việc giám sát, giáo dục người bị án phạt cải tạo không giam giữ.
Thứ sáu, Dự thảo đã bổ sung rất nhiều điều luật dẫn đến quy định tổng thể của Luật bị ảnh hưởng, mất tính liên kết hệ thống trong quy định, do vậy về hình thức cần ban hành Luật THAHS mới. Luật THAHS mới sẽ được sắp xếp theo bố cục phù hợp với các quy định mới nhằm đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ trong quy định. Luật THAHS mới cũng đồng thời đồng bộ với BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 tạo thành hệ thống các văn bản luật đồng bộ, thống nhất của tư pháp hình sự.
Xem thêm bài viết về “Luật Thi hành án hình sự 2010”
- Một số ý kiến về người được tha tù trước thời hạn có điều kiện trong Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự 2010 – ThS. Đỗ Thị Phượng
- Góp ý dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự 2010 về những quy định chung – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Bảo đảm quyền của người chưa thành niên là con của phạm nhân trong pháp luật Thi hành án hình sự Việt Nam – ThS. Vũ Thị Thúy & ThS. Nguyễn Thị Kiều Oanh
- Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự 2010 về Quản lý, giam giữ phạm nhân – ThS. Hoàng Đức Mạnh
CHÚ THÍCH
[1] Bản án số 19/2017/HSST của Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
[2] Bản án số: 38/2017/HSST của Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
[3] 1. Khi triệu tập người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ hoặc người đại diện của người chấp hành là người dưới 18 tuổi đến trụ sở cơ quan thi hành án để làm thủ tục thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 62 nhưng quá 07 ngày triệu tập mà người chấp hành không có mặt thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chấp hành án cư trú, đơn vị quân đội nơi người đó làm việc để xác định nguyên nhân không có mặt theo giấy triệu tập.
2. Trường hợp người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ không có mặt ở địa phương mà có lý do chính đáng thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu vẫn lập hồ sơ thi hành án và bàn giao hồ sơ cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chấp hành án cư trú, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục. Tiếp tục triệu tập người chấp hành án đến trụ sở cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để làm thủ tục thi hành án và gửi các tài liệu cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chấp hành án cư trú, đơn vị quân đội nơi người đó làm việc được giao giám sát, giáo dục để lưu hồ sơ thi hành án.
Trường hợp vắng mặt có lý do chính đáng phải thuộc một trong các trường hợp sau: người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ ốm đang phải điều trị tại cơ sở y tế (có văn bản xác nhận của cơ sở y tế); đang khắc phục tình trạng thiên tai, hỏa hoạn (có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú, đơn vị quân đội nơi người đó làm việc); người chấp hành án đang làm ăn xa chưa về kịp theo thời hạn trong giấy triệu tập (có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú, đơn vị quân đội nơi người đó làm việc).
3. Trường hợp người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ đi khỏi địa phương mà không biết đi đâu thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú, đơn vị quân đội nơi người đó làm việc, gia đình người chấp hành án xác minh nơi cư trú của người chấp hành án.
a) Nếu xác minh được người đang chấp hành án đang ở đâu thì yêu cầu người chấp hành án trở về địa phương để thi hành án.
b) Nếu không xác minh được người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ đang ở đâu thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu lập biên bản về việc người chấp hành án không có mặt tại nơi cư trú, có xác nhận của chính quyền địa phương, người chứng kiến và thông báo bằng văn bản cho Tòa án đã ra quyết định thi hành án, Viện kiểm sát cùng cấp và cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh biết. Đối với trường hợp này cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu vẫn lập hồ sơ thi hành án nhưng chưa bàn giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú, đơn vị quân đội nơi người đó làm việc.
4. Trường hợp người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ có mặt ở địa phương nhưng cố tình không chấp hành án theo giấy triệu tập thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu lập biên bản vi phạm nghĩa vụ chấp hành án và lập hồ sơ thi hành án và bàn giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú, đơn vị quân đội nơi người đó làm việc được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ.
[4] Mục V. Thực hiện các biện pháp không giam giữ Quy tắc chuẩn, tối thiểu của Liên hợp quốc về những biện pháp không giam giữ (Các quy tắc Tokyo) năm 1990.
- Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Ánh Hồng
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08(120)/2018 – 2018, Trang 26-31
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời