Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh của lực lượng cảnh sát kinh tế với tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai
Tác giả: Lại Sơn Tùng [1]
TÓM TẮT
Đất đai là tài nguyên quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng. Trong bài viết này, tác giả nêu ra những thủ đoạn phổ biến của tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai trong thời gian vừa qua, những khó khăn, vướng mắc trong quá trình đấu tranh với tội phạm này trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh của lực lượng cảnh sát kinh tế với tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực này trong thời gian tới.
1. Một số thủ đoạn phổ biến của tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai
Tại Khoản 2 Điều 4 Thông tư số 14/2012/TT- BTNMT ngày 26/11/2012 về Quy định kỹ thuật điều tra thoái hóa đất do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành, đất đai được hiểu như sau: “Đất đai là một vùng đất có ranh giới, vị trí, diện tích cụ thể và có các thuộc tính tương đối ổn định hoặc thay đổi nhưng có tính chu kỳ, có thể dự đoán được, có ảnh hưởng tới việc sử dụng đất trong hiện tại và tương lai của các yếu tố tự nhiên, kinh tế – xã hội như: thổ nhưỡng khí hậu, địa hình, địa mạo, địa chất, thủ văn, thực vật, động vật cư trú và hoạt động sản xuất của con người”2.
Theo báo cáo tổng kiểm kê đất đai của Tổng cục Quản lý đất đai: Tổng diện tích các loại đất của cả nước là 33.096.731 ha trong đó: đất nông nghiệp 26.822.953 ha (chiếm 81,04%); đất phi nông nghiệp 3.796.871 ha (chiếm 11,47%); đất chưa sử dụng 2.476.908 ha (chiếm 7,48%); đất có mặt nước ven biển 56.324 ha (chiếm 0,17%). Trên thực tế, đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, đất là mặt bằng để phát triển nền kinh tế quốc dân. Để khai thác được những giá trị mà đất đai mang lại đòi hỏi các cơ quan chức năng cần phải làm tốt công tác quản lý đất đai. Quản lý đất đai được hiểu là quá trình đảm bảo theo luật pháp cho việc sử dụng, phát triển quỹ đất, khai thác lợi nhuận thu được từ đất và giải quyết các vấn đề tranh chấp liên quan đến đất đai. Đối tượng quản lý đất đai liên quan đến cả hai đối tượng đất công và đất tư bao gồm các công việc: đo đạc đất đai, đăng ký đất đai, định giá đất đai giám sát sử dụng, lưu giữ và cung cấp các thông tin về đất đai.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác quản lý và sử dụng đất đai thông qua việc ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết cũng như các văn bản quy phạm pháp luật về thống kê, rà soát, quản lý đất đai nhằm thống nhất quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá này do đó đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì tình hình tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai đang diễn biến hết sức phức tạp, có chiều hướng gia tăng về số vụ, số đối tượng, nhiều vụ việc vi phạm diễn ra trong một khoảng thời gian dài mới được phát hiện, xử lý, có nhiều vụ việc xảy ra với quy mô lớn và có biểu hiện lợi ích nhóm. Trên cơ sở nghiên cứu và khảo sát thực tiễn, các vụ án kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai được thực hiện thông qua các thủ đoạn phổ biến sau đây:
Thủ đoạn trong quá trình triển khai thực hiện các dự án BT (dự án được thực hiện theo hình thức Xây dựng – Chuyển giao).
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (hay còn gọi là hợp đồng BT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam và Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong hợp đồng BT. Khi thực hiện các dự án theo hình thức hợp đồng BT, việc thanh toán cho nhà đầu tư thực hiện dự án bằng giá trị đất đối ứng thường tiến hành không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất mà căn cứ vào bảng giá đất do UBND ban hành. Trên thực tế, có những địa phương thuê đơn vị tư vấn xác định giá đất và thành lập Hội đồng thẩm định giá đất để thẩm định phương án giá đất của đơn vị tư vấn nhằm xác định giá đất thanh toán cho nhà đầu tư, tuy nhiên việc làm này chỉ mang tính hình thức.
Việc xác định giá đất được thực hiện theo Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường bao gồm 04 phương pháp: phương pháp so sánh trực tiếp; phương pháp chiết trừ; phương pháp thu nhập và phương pháp thặng dư, phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất3. Tuy nhiên, việc xác định được giá đất là không đơn giản, đôi khi còn bị tác động bởi ý chí chủ quan của người định giá, giá đất lấy làm mẫu thường đã được bàn bạc, thống nhất để thấp hơn giá trị giao dịch thật nhằm hạn chế tiền nộp thuế. Bên cạnh đó, trong cách tính có nhiều yếu tố giả định như doanh thu phát triển giả định, chi phí phát triển giả định… nên có thể sẽ bị chi phối bởi người tính toán vì vậy giá đất được xác định chưa thực sự sát với giá trị trường gây thất thoát ngân sách nhà nước.
Thủ đoạn trong việc cổ phần hóa doanh nghiệp liên quan đến đất đai.
Khi thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thì đa số không đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp do đất là thuê của Nhà nước, nếu có đưa thì giá trị sử dụng đất cũng không đáng là bao nhưng trên thực tế đều là các vị trí đất đắc địa, sau đó tiến hành điều chỉnh quy hoạch, xin chuyển mục đích sử dụng đất đang ở, đất thương mại dịch vụ để làm tăng giá trị quyền sử dụng đất dẫn đến việc nhà nước mất nguồn thu này, do loại đất này thường có giá trị thương mại lớn; hoặc một số công ty bị các doanh nghiệp lớn thâu tóm bằng hình thức mua lại cổ phần rồi chuyển mục đích sử dụng đất (có thể có những thỏa thuận ngầm trong đó) … Bên cạnh đó, còn có tình trạng một số doanh nghiệp góp vốn bằng đất thành lập công ty liên doanh để tiến hành triển khai, thực hiện dự án trên khu đất đó, sau đó tiến hành thoái vốn chuyển đất đai từ sở hữu doanh nghiệp nhà nước sang tư nhân.
Cố ý làm trái, thiếu trách nhiệm trong việc xét duyệt dự án cấp đất, giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đền bù, giải phóng mặt bằng.
Hành vi vi phạm này được thực hiện chủ yếu bởi những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai thuộc thẩm quyền của UBND các cấp, các phòng, ban, cán bộ địa chính thường hay dùng ở giai đoạn xét duyệt dự án, giao đất, thu hồi đất, cho phép chuyển quyền mục đích sử dụng đất, cho phép chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê đất,… những người có nhu cầu sử dụng muốn có được một trong cái loại đất nói trên phải tiến hành “chạy tiền” cho các cấp có thẩm quyền đó, ngoài ra các cấp có thẩm quyền này còn tiến hành một số hoạt động như: Cấp đất không đúng thẩm quyền, lợi dụng chức vụ quyền hạn bán đất để thu lợi nhuận cho địa phương và chiếm đoạt một phần lợi nhuận đó… Đối với các đối tượng có chức, có quyền trong các cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai tại địa phương thường là những người làm việc trực tiếp tại cơ sở.
Trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng các dự án, thủ đoạn phổ biến mà các đối tượng phạm tội sử dụng là hợp thức cho rất nhiều hộ dân không thuộc diện bồi thường hỗ trợ tái định cư được nhận bồi thường trái quy định và lập khống phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư cho các hộ dân khác, lập khống danh sách các hộ dân được tiêu chuẩn đất giãn dân để xin phương án quy hoạch chuyển đổi mục đích sử dụng đất gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước4.
Lợi dụng sự lỏng lẻo, bất cập trong công tác quản lý đất đai của các cơ quan chức năng móc nối với một số cán bộ chính quyền, cán bộ quản lý hợp tác xã… để xin chuyển nhượng, xin thuê, chuyển đổi mục đích sử dụng, san lấp, lấn chiếm đất trái phép.
Lợi dụng việc áp dụng luật đất đai chưa đồng bộ, chưa thống nhất cùng với sự lơ là tắc trách, hiểu biết pháp luật còn hạn chế cùng với sự tha hóa của một số cán bộ làm công tác quản lý đất đai. Các đối tượng phạm tội (người sử dụng đất đai) đã lợi dụng triệt để những sơ hở kể trên để trục lợi, có nơi đã nhen nhóm hình thành đường dây, ổ nhóm để phạm tội, gây cản trở, khó khăn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Lợi dụng sự phát triển của kỹ thuật công nghệ, một số đối tượng đã làm giả sổ đỏ để tiếp tay cho hành vi lừa đảo đối với người dân, các cơ sở cầm đồ, tổ chức tín dụng, cho vay vốn.
Thực tiễn đã có rất nhiều vụ việc liên quan đến việc làm, sử dụng sổ đỏ giả để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật được lực lượng chức năng phát hiện, khám phá trong thời gian qua. Trong các vụ việc này, sổ đỏ được làm giả giống như thật nên bằng mắt thường và các công cụ thủ công không thể phát hiện được là giả hay thật. Thực tế cho thấy một số trường hợp khi tiến hành làm các thủ tục công chứng việc chuyển nhượng đất đai với sổ đỏ giả nhưng cơ quan Công chứng không thể phân biệt được sổ đỏ đó là thật hay giả. Bên cạnh đó, quá trình quản lý phôi sổ đỏ vẫn còn nhiều sơ hở, đã từng xảy ra nhiều vụ mất phôi sổ đỏ nên có tình trạng sổ đỏ được làm giả trên phôi thật gây khó khăn cho quá trình phát hiện và xử lý của các cơ quan chức năng.
2. Những khó khăn, vướng mắc của lực lượng cảnh sát kinh tế khi đấu tranh với tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai
Trên cơ sở những thủ đoạn được phân tích ở trên và từ thực tiễn hoạt động đấu tranh với tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai cho thấy lực lượng Cảnh sát kinh tế gặp những khó khăn, vướng mắc cụ thể sau đây:
Một là, thực tiễn hiện nay, số tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố về tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai đã thụ lý, giải quyết còn chiếm tỷ lệ rất thấp so với tổng số tin báo về tội phạm nói chung. Điều đó cho thấy việc phát hiện, thụ lý tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố về tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai trong thời gian qua chưa phản ánh đúng thực tế khách quan tình hình tội phạm này trên địa bàn cả nước trong nhiều năm qua.
Hai là, xuất phát từ chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội thường là những người có chức vụ, quyền hạn, có trình độ chuyên môn trong quản lý, quy hoạch và sử dụng đất đai, có quan hệ xã hội sâu rộng, am hiểu về pháp luật nên luôn biết cách lách qua những “kẽ hở” của pháp luật khi thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, việc xác minh hành vi phạm tội của các đối tượng này gặp nhiều khó khăn, các đối tượng thường không cung cấp đầy đủ chứng cứ, tài liệu phục vụ cho công tác xác minh hoặc tìm mọi cách để hợp thức hóa tài liệu nhằm che giấu hành vi phạm tội.
Điều đáng nói, trong lĩnh vực quản lý đất đai, hành vi tham nhũng “vặt” vẫn còn xảy ra phổ biến đặc biệt như việc nhũng nhiễu trong quá trình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xin cấp phép xây dựng, làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng việc phát hiện để khởi tố, điều tra, truy tố đối với những hành vi này hầu như không có.
Ba là, nhiều vụ việc sai phạm xảy ra trong một khoảng thời gian dài mới bị phát hiện, có những vụ việc thì quá trình bàn giao, quản lý hồ sơ tài liệu, sổ sách lưu trữ giữa những người có thẩm quyền qua từng nhiệm kỳ không đúng quy định do đó việc thu thập các tài liệu, chứng cứ liên quan đến hành vi phạm tội như các Sổ Nghị quyết, Biên bản họp, Hợp đồng cho thuê đất, chứng từ thu, chi… gặp nhiều khó khăn hoặc thậm chí là không thể thu thập được và do thời gian xảy ra đã lâu nên các tài liệu trên thường bị hư hỏng, thất lạc không còn được lưu giữ, dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, cụ thể các cán bộ lãnh đạo ở nhiệm kỳ sau đổ lỗi cho các cán bộ lãnh đạo ở nhiệm kỳ trước.
Bốn là, những thông tin, tài liệu, số liệu có liên quan đến việc quản lý, quy hoạch và sử dụng đất đai có giá trị chứng minh hành vi phạm tội của các đối tượng cần phải thu thập tại một số cơ quan như Sở Tài nguyên và Môi trường; Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Tài chính… Tuy nhiên, thực tế tại một số địa phương thì mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng cảnh sát kinh tế với các Sở, ngành còn hạn chế dẫn đến việc thu thập tài liệu gặp nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian dẫn đến tình trạng có những vụ án phải gia hạn điều tra nhiều lần.
Năm là, một số quy định của Bộ luật hình sự hiện hành và các văn bản liên quan đến quản lý đất đai hiện nay vẫn tồn tại một số điểm bất cập gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết các vụ án kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai. Đơn cử như quy định về khái niệm “thi hành công vụ”, “chủ thể thi hành công vụ” và “thực hiện nhiệm vụ” vẫn chưa được rõ ràng theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và Bộ luật hình sự, dẫn tới việc định tội danh cho các bị can có hành vi sai phạm là Trưởng, phó thôn có hành vi bán đất, giao đất trái thẩm quyền của lực lượng Công an, Tòa án và Viện kiểm sát chưa được thống nhất.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh của lực lượng cảnh sát kinh tế với tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai
Trên cơ sở những khó khăn, vướng mắc đã nêu ở trên, để nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai, lực lượng cảnh sát kinh tế cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, làm tốt công tác nắm tình hình trên địa bàn được phân công, phân cấp quản lý để phát hiện những thông tin ban đầu về tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai. Đồng thời tham mưu các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp quan tâm, chỉ đạo sát sao hơn nữa trong công tác tiếp nhận và giải quyết các vụ việc sai phạm về kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai. Trên cơ sở những thông tin thu thập được chủ động tiến hành điều tra, xác minh làm rõ; nếu xét thấy vụ việc có dấu hiệu của tội phạm thì tiến hành xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ hai, xây dựng quy chế phối hợp giữa lực lượng cảnh sát kinh tế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với các cơ quan như Sở Tài nguyên và Môi trường; Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Tài chính,… trong việc trao đổi, cung cấp thông tin tài liệu có liên quan đến việc quản lý, quy hoạch và sử dụng đất đai có giá trị chứng minh hành vi phạm tội để quá trình điều tra, khám phá tội phạm vi phạm quy định về quản lý sử dụng đất đai được diễn ra một cách thuận lợi.
Thứ ba, tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu về đấu tranh với tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai cho lực lượng cảnh sát kinh tế cả nước nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ nghiệp vụ điều tra, kiến thức pháp luật về quản lý kinh tế, quản lý đất đai. Nắm vững những vấn đề về thủ đoạn gây án của tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai để từ đó xác định những vấn đề mang tính quy luật trong hoạt động phạm tội của các đối tượng qua đó chủ động phát hiện tội phạm. Đồng thời, cần ưu tiên tuyển chọn những cán bộ, chiến sỹ có trình độ, kiến thức am hiểu về lĩnh vực quản lý sử dụng đất đai vào đơn vị có chức năng chuyên trách đấu tranh với tội phạm vi phạm quy định về quản lý sử dụng đất đai.
Thứ tư, đề nghị các cơ quan trung ương hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật có liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai, đặc biệt chú trọng vào công tác quy hoạch, quản lý sử dụng đất đai cũng như các chế tài cần thiết để xử lý hành vi sai phạm về kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai. Đặc biệt hiện nay, pháp luật hiện hành đã mở rộng phạm vi tham nhũng trong khu vực tư nên đối với tội phạm kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực đất đai, cụ thể là một số tội danh cụ thể như Tham ô tài sản, các tội phạm về hối lộ,… cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể trong việc xử lý hành vi phạm tội trong khu vực tư như thế nào hay cần giải thích rõ khái niệm “thi hành công vụ”, “chủ thể thi hành công vụ” và “thực hiện nhiệm vụ” để các đơn vị chuyên trách như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thống nhất trong việc định tội danh và nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai.
Thứ năm, tuyên truyền, phát động quần chúng nhân dân tích cực tham gia tố giác tội phạm về kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai. Để làm tốt được việc này, cần có chính sách khen thưởng, động viên người tố cáo hành vi sai phạm đã tố cáo đúng và giúp cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, xử lý được các hành vi phạm tội kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực đất đai để khuyến khích tinh thành đấu tranh với mọt biểu hiện tiêu cực của người dân. Bên cạnh đó, cần thể chế háo những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về bảo vệ người tố cáo. Ngoài ra, đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, gây thất thoát một số lượng lớn tài sản của Nhà nước có thể lựa chọn xét xử lưu động để người dân có thể nắm được những phương thức, thủ đoạn phổ biến của loại tội phạm này trên cơ sở đó góp phần tích cực cho công tác phòng ngừa loại tội phạm này trong thời gian tới./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sỹ, Giảng viên Khoa Cảnh sát kinh tế, Học viện Cảnh sát nhân dân.
- Khoản 2, Điều 4 Thông tư số 14/2012/TT-BTNMT ngày 26/11/2012 về quy định kỹ thuật điều tra thoái hóa đất.
- https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/thuc-trang-giai-phap-nang-cao-chat-luong-ksdt-ksxx- d10-t905.html
Trả lời