Mục lục
Đương nhiên xóa án tích được hiểu là khi người bị kết án đã đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của BLHS thì người đó “đương nhiên” được coi như chưa bị kết án mà không cần có sự xem xét, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền nào.
Xem thêm bài viết về “Án tích“, “Xóa án tích”
- Án tích là gì? Đặc điểm và hậu quả pháp lý của án tích? – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Xóa án tích theo quyết định của Tòa án theo quy định BLHS 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi bị kết án theo BLHS 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt theo quy định BLHS 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
1. Đương nhiên xóa án tích là gì?
1.1. Xóa án tích là gì
Theo quy định tại Điều 69 BLHS 2015 thì “Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án”, theo đó, xóa án tích được hiểu là việc xóa bỏ những bản án, tiền án của người bị kết án, người đó được coi như chưa từng bị Tòa án xét xử, kết án và Tòa án không được căn cứ vào án tích đã được xóa để xác định tái phạm hay tái phạm nguy hiểm khi người đó phạm tội mới.
1.2. Các hình thức xóa án tích
Theo quy định hiện nay của BLHS 2015, căn cứ vào tội danh của người bị kết án thì có 02 hình thức xóa án tích là: đương nhiên xóa án tích và xóa án tích theo quyết định của Tòa án. Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 69 BLHS 2015 thì “Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.”
1.3. Đương nhiên xóa án tích là gì
Đương nhiên xóa án tích không phải là một chính sách mới trong pháp luật hình sự nước ta, từ BLHS năm 1985 đã có quy định về đương nhiên xóa án tích cho đến BLHS 2015 thì đương nhiên xóa án tích vẫn được giữ nguyên về tinh thần và ý nghĩa của nó. Ngay từ tên gọi của chính sách này là “đương nhiên xóa án tích” được hiểu là khi người bị kết án đã đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của BLHS thì người đó “đương nhiên” được coi như chưa bị kết án mà không cần có sự xem xét, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền nào.
Vì vậy, “đương nhiên xóa án tích” là một chính sách về hình sự rất nhân văn, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân được tái hòa nhập cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội.
2. Đối tượng đương nhiên được xóa án tích
2.1. Người bị kết án
Theo quy định của Điều 64 BLHS năm 1999 thì đối tượng được đương nhiên xóa án tích bao gồm: người được miễn hình phạt và người bị kết án không phải về 26 các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này.
Đến BLHS năm 2015 đã sửa đổi về đối tượng đương nhiên được xóa án tích, theo đó, đối tượng được áp dụng đương nhiên xóa án tích là người bị kết án không thuộc các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của BLHS 2015, tức là những người không bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội phá hoại hòa bình, chống phá loài người và tội phạm chiến tranh được quy định tại khoản 2 Điều 70 BLHS năm 2015.
2.2. Pháp nhân thương mại phạm tội
Ngoài ra, Điều 89 BLHS 2015 đã quy định bổ sung thêm đối tượng phải chịu trách nhiệm hình sự là pháp nhân thương mại phạm tội và quy định về đương nhiên xóa án tích cho pháp nhân thương mại phạm tội: “Pháp nhân thương mại bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu trong thời hạn 02 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà pháp nhân thương mại không thực hiện hành vi phạm tội mới”.
Pháp nhân thương mại bị kết án và phải chịu hình phạt được đương nhiên xóa án tích khi có đủ điều kiện là không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn 02 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án. Việc xóa án tích đối với pháp nhân thương mại là đương nhiên xóa án tích. Khi có đủ điều kiện và thời hạn luật định, pháp nhân thương mại đương nhiên được xóa án tích mà không cần thêm một thủ tục nào khác.
Sau khi đương nhiên được xóa án tích, pháp nhân thương mại được coi như chưa bị kết án. Tuy nhiên, về đương nhiên xóa án tích đối với pháp nhân thương mại bị kết án của BLTTHS năm 2015 lại quy định thủ tục pháp nhân thương mại phải có đơn yêu cầu và do Chánh án Tòa án đã xét xử cấp sơ thẩm cấp Giấy chứng nhận (được quy định tại Điều 446).
Đây là quy định chưa phù hợp với Điều 89 của BLHS năm 2015. Do đó, khi xóa án tích cho pháp nhân thương mại bị kết án vẫn cần phải áp dụng quy định của BLHS nhằm thể hiện đúng tinh thần đổi mới về chế định xóa án tích đối với người bị kết án hoặc pháp nhân thương mại bị kết án của Nhà nước ta.
3. Điều kiện đương nhiên được xóa án tích
3.1. Theo quy định của BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
Quy định của BLHS 2015 đã có một số sửa đổi cơ bản về điều kiện đương nhiên xóa án tích so với BLHS 1999: Theo quy định của khoản 2 Điều 64 BLHS 1999, điều kiện đương nhiên xóa án tích là: Người bị kết án nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn mà Bộ luật này quy định.
3.2. Theo quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Đến BLHS 2015 hiện nay, điều kiện để người bị kết án được đương nhiên xóa án tích thì phải xem xét điều kiện đồng thời trên phương diện sau: Phải chấp hành xong hình phạt chính, thời hạn thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án. Từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người bị kết án phải chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 70 của BLHS 2015. Trường hợp hết thời hiệu thi hành án, người bị kết án không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 của BLHS 2015.
Như vậy, có thể thấy, một trong những điều kiện đầu tiên để tính thời hạn xem xét đương nhiên xóa án tích theo quy định của BLHS 1999 là người bị kết án phải chấp hành xong bản án tức là người bị kết án phải chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án thì mới được tiếp tục xem xét đương nhiên xóa án tích.
BLHS 2015 đã sửa đổi về điều kiện này theo hướng người bị kết án bắt đầu được tính thời hạn để xem xét về điều kiện đương nhiên xóa án tích khi chấp hành xong hình phạt chính. Như vậy, có thể thấy BLHS năm 2015 quy định thời điểm để tính thời hạn xóa án tích sớm hơn so với BLHS năm 1999, quy định này có lợi hơn rất nhiều cho người bị kết án so với quy định trước kia, tạo điều kiện cho họ sớm được hòa nhập cộng đồng.
Ví dụ: Nguyễn Văn B bị Tòa án kết án về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ quy định tại khoản 1 Điều 356 BLHS năm 2015 với mức án 02 năm tù và hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ trong thời hạn 03 năm. Ngày 01/7/2019, Nguyễn Văn B chấp hành xong hình phạt tù. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 70 BLHS năm 2015 thì thời hạn để xóa án tích cho Nguyễn Văn B là 02 năm tính từ khi chấp hành xong hình phạt chính (tức là ngày 01/7/2021).
Tuy nhiên, kể từ thời điểm mãn hạn tù (ngày 01/7/2019), Nguyễn Văn B bắt đầu chấp hành hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ cho đến ngày 01/7/2022. Như vậy, do hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ đối với Nguyễn Văn B dài hơn thời hạn để xem xét xóa án tích nên trong trường hợp này, thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào ngày 01/7/2022 – thời điểm Nguyễn Văn B chấp hành xong hình phạt bổ sung.
Ngoài ra, một trong những điều kiện cơ bản để xem xét đương nhiên xóa án tích cho người bị kết án theo quy định của BLHS 1999 là người bị kết án không phạm tội mới. Theo đó, điều kiện này được hiểu là người bị kết án không bị kết án bởi một bản án mới trong thời hạn mà Bộ luật này quy định. Đến BLHS 2015 thì quy định này được sửa đổi là người bị kết án không có hành vi phạm tội mới, đây được coi là một sửa đổi cơ bản trong điều kiện đương nhiên xóa tích của BLHS 2015, tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định cụ thể về vấn đề này vì vậy còn nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể:
– Quan điểm thứ nhất cho rằng, điều kiện về việc “không có hành vi phạm tội mới” vẫn phải hiểu là “không bị kết án bởi một bản án mới” như đối với quy định của BLHS 1999 để bảo đảm đúng nguyên tắc suy đoán vô tội theo tinh thần của Điều 31 Hiến pháp 2013 “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật”. Do đó, việc xem xét “hành vi phạm tội mới” từ giai đoạn khởi tố bị can có thể coi là “vi hiến”, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.
– Quan điểm thứ hai cho rằng, mặc dù hiện nay chưa có quy định cụ thể thế nào là “hành vi phạm tội mới” nhưng theo quy định của khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2015 thì: “Khi có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can”. Theo đó, khi một người hoặc pháp nhân bị khởi tố bị can thì người/pháp nhân đó đã thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm.
Vì vậy, “hành vi phạm tội mới” theo quy định tại Điều 70 BLHS 2015 được hiểu là từ khi bị khởi tố bị can về hành vi phạm tội mới. Quan điểm này cho rằng, “hành vi phạm tội mới” chỉ là một trong các điều kiện để xem xét đương nhiên xóa án tích cho một án tích cũ, được xem như điều kiện về ý thức thực hiện pháp luật của người bị kết án, việc xác nhận có tội hay không có tội là đối với án tích cũ chứ không phải với hành vi mới, do đó không thể coi quy định này là “vi hiến”. Mặt khác, thực tiễn quản lý thông tin người phạm tội cho rằng điều kiện này như một biện pháp ngăn chặn, tránh sai sót, bỏ lọt tội phạm trong nhiều trường hợp.
Tuy nhiên, BLHS năm 2015 đã có đổi mới trong việc xác định thời điểm tính thời hạn xóa án tích. Theo đó, thời điểm tính thời hạn xóa án tích cho người bị kết án kể từ ngày người đó chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo (Điều 70 BLHS năm 2015). Còn đối với hình phạt bổ sung hay các quyết định khác của bản án (như vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc án phí…) thì người đó sẽ thực hiện trong thời hạn được tính để xóa án tích. Như vậy, quy định mới này của BLHS có lợi hơn rất nhiều đối với người bị kết án, tạo điều kiện cho họ sớm được hòa nhập cộng đồng.
Ví dụ: Nguyễn Văn A bị kết án 05 năm tù và bị tuyên thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền 30 triệu đồng. Đến ngày 15/5/2018, Nguyễn Văn A đã chấp hành xong hình phạt chính là phạt tù 05 năm. Lúc này, Nguyễn Văn A chưa thực hiện xong hình phạt tiền 30 triệu đồng.
Trong trường hợp này, Nguyễn Văn A đã được bắt đầu tính thời hạn để được xóa án tích (trong trường hợp này, thời hạn để xóa án tích là 02 năm kể từ thời điểm tính thời hạn này) kể từ ngày 15/5/2018. Nếu trong 02 năm sau (từ ngày 15/5/2018 đến ngày 15/5/2020) Nguyễn Văn A thực hiện xong hình phạt bổ sung là 30 triệu đồng và có đủ các điều kiện khác thì đến ngày 16/5/2020 trong Phiếu lý lịch tư phápcủa Nguyễn Văn A sẽ ghi là không có án tích.
Trường hợp trong thời gian 02 năm này mà Nguyễn Văn A vẫn chưa thực hiện xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền thì bất cứ khi nào Nguyễn Văn A thực hiện xong hình phạt bổ sung này và đủ các điều kiện khác thì Nguyễn Văn A được coi là không có án tích ngay sau thời điểm đó.
Tuy nhiên, có một điểm cần lưu ý rằng, trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định hay tước một số quyền công dân, nếu thời hạn phải chấp hành một trong các hình phạt bổ sung này dài hơn thời hạn tính để xóa án tích thì thời điểm đương nhiên xóa án tích là khi chấp hành xong hình phạt bổ sung đó.
Ví dụ: Nguyễn Văn A bị kết án 05 năm tù và bị tuyên thêm hình phạt bổ sung là bị quản chế 03 năm. Đến ngày 15/5/2018, Nguyễn Văn A đã chấp hành xong hình phạt chính là phạt tù 05 năm. Lúc này, Nguyễn Văn A phải thực hiện hành phạt bổ sung là quản chế. Trong trường hợp này, Nguyễn Văn A đã được bắt đầu tính thời hạn để được xóa án tích (trong trường hợp này, thời hạn để xóa án tích là 02 năm kể từ thời điểm tính thời hạn này) kể từ ngày 15/5/2018.
Tuy nhiên, trong 2 năm sau (từ ngày 15/5/2018 đến ngày 15/5/2020) Nguyễn Văn A không thể thực hiện xong hình phạt bổ sung là quản chế được vì thời hạn của hình phạt này là 03 năm. Do vậy, đến ngày 15/5/2021, khi Nguyễn Văn A đã thực hiện xong hình phạt bổ sung là quản chế và có đủ các điều kiện khác thì đến ngày 16/5/2021 trong Phiếu lý lịch tư phápcủa Nguyễn Văn A sẽ ghi là không có án tích.
4. Thủ tục cấp Giấy chứng nhận xóa án tích
4.1. Theo quy định của BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
Theo quy định của BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì “người được xoá án tích coi như chưa bị kết án và được Toà án cấp giấy chứng nhận” (Điều 63).
Như vậy, BLHS 1999 quy định Tòa án có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận xóa án tích cả trường hợp người bị kết án được đương nhiên xóa án tích.
Theo đó, để được cấp Giấy chứng nhận xóa án tích, người bị kết án phải tự mình đến các cơ quan có liên quan đến xin chứng nhận. Ví dụ: họ phải xin giấy xác nhận đã chấp hành xong các hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án, xác nhận về việc không phạm tội mới, tuân thủ pháp luật.
Những thủ tục này không hề đơn giản và khó khăn cho những người mới chấp hành xong án hình sự. Thực tế như vậy dẫn đến việc thực hiện chính sách hình sự về đương nhiên xóa án tích không được hiệu quả và triệt để, người bị kết án lẽ ra được “đương nhiên” mà lại không được nhà nước “đương nhiên” xóa án tích cho mình. Khi đáp ứng đủ những điều kiện do pháp luật quy định (Điều 64 BLHS 1999), thì người đã bị kết án được đương nhiên xóa án tích và được coi như chưa phạm tội.
Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ án là cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận xóa án tích cho người đủ điều kiện khi họ có yêu cầu (Điều 270 BLTTHS 2003): “Theo yêu cầu của người được đương nhiên xóa án tích quy định tại Điều 64 của Bộ luật hình sự, Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm vụ án cấp Giấy chứng nhận là họ đã được xóa án tích”.
4.2. Theo quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Đến BLHS 2015 đã quy định phân rõ trách nhiệm của Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong việc xác nhận cho người được đương nhiên xóa án tích theo quy định tại khoản 4 Điều 70 BLHS 2015:“4. Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp Phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này”.
Quy định này nhằm đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc xóa án tích, giảm thiểu rất nhiều thủ tục, tạo thuận lợi cho người dân, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với quy định của Luật Lý lịch tư pháp.
Người bị kết án khi có đủ điều kiện của luật định có quyền yêu cầu Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp cấp Phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích. Theo quy định tại khoản 1 Điều 369 BLTTHS năm 2015 thì trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của người đương nhiên được xóa án tích và xét thấy có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 70 BLHS thì Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp cấp Phiếu lý lịch tư pháp xác nhận họ không có án tích.
Quy định về “đương nhiên xóa án tích” được sửa đổi theo quy định của BLHS 2015 sẽ bảo đảm quyền và lợi ích của cá nhân, người bị kết án không phải tự “chứng minh” xóa án tích và không phải đề nghị cơ quan có thẩm quyền xóa án tích cho mình mà theo đó, cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm quản lý thông tin của người bị kết án và cung cấp thông tin về án tích của họ khi có yêu cầu.
Như vậy, Tòa án không còn trách nhiệm cấp Giấy chứng nhận cho người đương nhiên xóa án tích nữa mà chỉ thực hiện quyết định xóa án tích cho người bị kết án về một trong các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của BLHS 2015, được quy định tại khoản 2 Điều 71 BLHS năm 2015./.
Trả lời