Mục lục
Thực chất những người hành nghề “Tú bà”, “Bố mì” đều là những người môi giới mại dâm – bị pháp luật hình sự nghiêm cấm! Vậy dấu hiệu pháp lý của tội môi giới mại dâm là gì? Hãy cùng iluatsu.com đi tìm hiểu nhé! Let’s go!
Xem thêm bài viết về “Dấu hiệu pháp lý”
- Dấu hiệu pháp lý Tội chứa mại dâm theo Bộ luật Hình sự 2015 – LS. Nguyễn Lan Anh
- Dấu hiệu pháp lý của Tội mua dâm người dưới 18 tuổi – LS. Nguyễn Lan Anh
- Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về mại dâm – ThS. Nguyễn Nhật Khanh & ThS. Trần Quốc Minh
Dấu hiệu pháp lý của tội môi giới mại dâm bao gồm: Khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và Chủ thể của tội phạm. Trong đó:
1. Khách thể của tội môi giới mại dâm
Tương tự như tội chứa mại dâm, hành vi môi giới mại dâm xâm hại nghiêm trọng đến trật tự công cộng, an ninh xã hội, đạo đức, thuần phong mỹ tục, truyền thống của dân tộc, lối sống văn minh lành mạnh của đất nước.
2. Mặt khách quan của tội môi giới mại dâm
2.1. Hành vi khách quan
“Môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm.”
Trích “Pháp lệnh phòng, chống mại dâm ngày 17/3/2003 – Ủy ban thường vụ Quốc hội”.
Hành vi khách quan của tội môi giới mại dâm thường được biểu hiện theo nhiều hình thức khác nhau, phổ biến như:
Người phạm tội có hành vi dụ dỗ
Dụ dỗ là mánh khóe dùng lời hay hứa hẹn quyền lợi để thúc đẩy người khác theo ý của mình; dụ dỗ có thể được thực hiện bừng mọi thủ đoạn, nhiều hình thức khác nhau nhằm đạt được tối đa mục đích của mình. Dụ dỗ có thể được tiến hành với người mua dâm hoặc người bán dâm.
Người phạm tội có hành vi dẫn dắt
“Người phạm tội dẫn dắt người bán dâm, người mua dâm đến một địa điểm nào đó để việc bán dâm và mua dâm được thực hiện. Hành vi dẫn dắt thể hiện ở hành vi đưa đường dẫn – chỉ lối, sao cho đối tượng mua dâm và bán dâm gặp nhau. Người phạm tội trở thành kẻ liên lạc, làm trung gian giữa cuộc mua bán dâm. Người phạm tội là trung gian có thể biết nhưng không nhất thiết phải biết cụ thể người bán dâm cho người nào hoặc người mua dâm với ai.”
Vũ Thị Hồng Hạnh (2014) – Trích “Tội môi giới mại dâm trong Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Qua thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy: Hành vi môi giới mại dâm được thực hiện rất đa dạng, trực tiếp hoặc thông qua trung gian để dụ dỗ, dẫn dắt mại dâm. Người phạm tội sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi như nhắn tin qua điện thoại, quảng cáo trên các diễn đàn, trang web đen với các mật khẩu nhận dạng để tránh sự truy lùng, phát hiện của các cơ quan chức năng.
Người phạm có thể đồng thời tổ chức chứa chấp mại dâm
Người có hành vi môi giới mại dâm cũng có thể đồng thời đứng ra tổ chức, chứa chấp mại dâm, nhưng cũng có thể chỉ làm công việc môi giới, dẫn dắt cho người mua dâm, bán dâm gặp gỡ thỏa thuận, tùy từng trường hợp cụ thể họ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo nguyên tắc phạm nhiều tội.
Khi xác định hành vi môi giới mại dâm cần phân biệt với hành vi của người đồng phạm trong vụ án chứa mại dâm có tổ chức, nếu tách riêng hành vi của người đồng phạm thì chỉ có thể xác định là hành vi môi giới mại dâm nhưng vì hành vi này là hành vi giúp sức cho việc chứa mại dâm nên phải xác định là tội chứa mại dâm.
Ví dụ: A là chủ tiệm gội đầu. A được B giao nhiệm vụ nếu có khách đến tiệm gội đầu thì gợi ý cho khách để khách mua dâm, khi khách mua dâm đồng ý thì chỉ cho khách đến nhà nghỉ của B để mua dâm, B sẽ trả cho A 100.000 đồng một khách mua dâm do A dắt mối. Hành vi của A nếu tách ra để xem xét một cách độc lập thì chỉ phạm tội môi giới mại dâm nhưng nếu xét trong mối quan hệ giữa B và A thì hành vi của A là hành vi chứa mại dâm với vai trò là người giúp sức cho B.
2.2. Hậu quả
Đây không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi: dụ dỗ, móc nối, dẫn dắt người mại dâm và người mại dâm đã có sự nhận lời, thỏa thuận.
2.3. Các dấu hiệu khách quan khác
Thủ đoạn và phương pháp phạm tội là cách thức, thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng nhằm đạt được mục đích của hành vi phạm tội cũng như che giấu tội phạm.
Các thủ đoạn mà tội phạm sử dụng thường được ngụy trang bằng một vỏ bọc bên ngoài như: bán nước vỉa hè, kinh doanh quán hát karaoke, nhà nghỉ, khách sạn, xe ôm…Họ cũng thường xuyên thay đổi địa điểm, sử dụng sim rác, không chính chủ, phương pháp phạm tội để qua mặt các cơ quan chức năng, lẩn trốn pháp luật. Những dấu hiệu này cần được chú ý khi xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
3. Mặt chủ quan của tội môi giới mại dâm
3.1. Yếu tố lỗi
Theo Điều 328 BLHS 2015 thì tội môi giới mại dâm được thực hiện với lỗi cố ý. Ở đây, người phạm tội nhận thức rõ được hành vi dụ dỗ, dẫn dắt người mua dâm hoặc người bán dâm để họ mua dâm, bán dâm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật hình sự nghiêm cấm và là hành vi phạm tội trái với thuần phong mỹ tục, nếp sống văn hóa đạo đức của dân tộc nhưng vẫn cố tình thực hiện và mong muốn hành vi được diễn ra thuận lợi.
Bên cạnh đó, tội môi giới mại dâm có cấu thành hình thức, do đó hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội hoàn toàn có thể thấy được hậu quả xảy ra: gây ra tệ nạn xã hội, là nguyên nhân để lây truyền các căn bệnh nguy hiểm như HIV, lậu, giang mai… và người phạm tội bằng mọi cách thực hiện hành vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra nhằm thu lợi bất chính cho bản thân.
Do đó, ở đây là lỗi cố ý trực tiếp.
Nếu vì một lý do nào đó mà họ không biết hoặc không thể biết việc mua bán dâm thì không thể coi là phạm tội môi giới mại dâm.
3.2. Động cơ, mục đích phạm tội
Động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Động cơ, mục đích càng xấu thì mức hình phạt sẽ càng nặng và ngược lại. Mục đích và động cơ luôn đi liền, không tách rời nhau.
Trong tội môi giới mại dâm, động cơ của người phạm tội chủ yếu là do tư lợi hoặc động cơ cá nhân khác, và thực tiễn xét xử cho thấy, hầu hết các vụ môi giới mại dâm chủ yếu do động lực kinh tế thúc đẩy. Vì muốn kiếm tiền, làm giàu nhanh chóng mà không cần vất vả bỏ sức lao động mà những người như: chủ quán nước, xe ôm, chủ nhà nghỉ, khách sạn, quán hát karaoke… sẵn sàng thực hiện hành vi trái với pháp luật và đạo đức xã hội.
4. Chủ thể của tội môi giới mại dâm
Cũng như các tội phạm khác, chủ thể của tội phạm là người không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS khi phạm tội, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội môi giới mại dâm. Để xác định một người có đủ điều kiện về chủ thể của tội phạm hay không thì phải xem xét đến tình trạng năng lực TNHS và độ tuổi của người đó.
4.1. Tình trạng không có năng lực TNHS
Người phạm tội là người không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người bị bệnh tâm thần hay bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình khi phạm tội thì không phải là chủ thể của tội phạm.
Xem thêm: Thế nào là không có năng lực trách nhiệm hình sự?
Trong tội môi giới mại dâm, người thực hiện hành vi phạm tội hoàn toàn có đủ năng lực TNHS, tức là người đó nhận thức rõ được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, trái với đạo đức và pháp luật hình sự, trái với lối sống văn minh dân chủ quốc gia nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi và bằng khả năng của mình thực hiện hành vi mặc dù có thể lựa chọn không thực hiện hành vi phạm tội.
4.2. Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên
Độ tuổi cũng là một dấu hiệu quan trọng xác định năng lực chủ thể. Chủ thể của tội môi giới mại dâm không phải là chủ thể đặc biệt mà có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên.
Theo quy định tại điều 12 BLHS 2015 về tuổi chịu TNHS thì: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
Cũng theo khoản 2 điều 12 BLHS 2015 thì Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội môi giới mại dâm. Đây cũng là một trong những điều khác biệt của BLHS 2015 so với BLHS 1999, theo BLHS 1999 thì độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tội môi giới mại dâm là đủ 14 tuổi trở lên.
Nếu bạn có câu hỏi cần giải đáp hoặc thắc mắc liên quan đến bài viết, hãy để lại bình luận để cùng thảo luận nhé!