Mục lục
Thông thường, các chủ sở hữu khách sạn, nhà nghỉ gọi gái bán dâm cho khách mua dâm ngay tại Khách sạn của mình để hưởng hoa hồng, hành vi này có thể cấu thành Tội chứa mại dâm theo Điều 327 – Bộ luật hình sự năm 2015. Vậy dấu hiệu pháp lý Tội chứa mại dâm là gì? Chúng ta cùng đi tìm hiểu… Let’s go!
Xem thêm bài viết về “Dấu hiệu pháp lý”
- Dấu hiệu pháp lý của Tội môi giới mại dâm – LS. Nguyễn Lan Anh
- Dấu hiệu pháp lý của Tội mua dâm người dưới 18 tuổi – LS. Nguyễn Lan Anh
- Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm về mại dâm – ThS. Nguyễn Nhật Khanh & ThS. Trần Quốc Minh
Dấu hiệu pháp lý của Tội chứa mại dâm bao gồm: Khách thể, Mặt khách quan, Mặt chủ quan và Chủ thể của tội phạm. Trong đó:
1. Khách thể của Tội chứa mại dâm
“Khách thể của tội phạm được hiểu là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại”.
– Trường đại học luật Hà Nội (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập 1, Nxb Công an nhân dân-
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề bảo vệ trật tự công cộng, đồng thời không ngừng đổi mới, hoàn thiện việc tổ chức, quản lý lĩnh vực này. Tội chứa mại dâm trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng, xâm phạm đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, trật tự trị an xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn xã hội cũng như lây lan các căn bệnh nguy hiểm cho xã hội.
2. Mặt khách quan của tội chứa mại dâm
“Mặt khách quan là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan”
– Lê Cảm (2003), (Chủ biên) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2003-
Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các biểu hiện khác bên ngoài của việc thực hiện tội phạm (công cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm…)
2.1. Hành vi khách quan
2.2.1. Hành vi chứa mại dâm là gì?
Điều 427 BLHS 2015 chỉ nêu tội danh chứa mại dâm mà không mô tả về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này, do đó tại khoản 4 Điều 3 Pháp lệnh phòng chống mại dâm ngày 17/3/2003 quy định: Hành vi chứa mại dâm “là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm”.
Điều này được hướng dẫn chi tiết hơn tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 178/2004/NĐCP: “Cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện để hoạt động mại dâm” quy đinh tại khoản 4 Điều 3 của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm là hành vi của tổ chức, cá nhân có quyền quản lý, chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản mà cho thuê, cho mượn để hoạt động mại dâm”.
Theo quy định tại mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS thì: “Trong trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ… gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ… thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm thì người đó chỉ phải chịu TNHS về “tội chứa mại dâm”. Trong trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ… vừa gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ… thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm vừa còn gọi gái mại dâm khác cho khách mua dâm khác để họ thực hiện việc mua bán dâm tại nơi khác thì người đó phải chịu TNHS về “tội chứa mại dâm” và “tội môi giới mại dâm”.
2.2.2. Trường hợp cấu thành tội chứa mại dâm
Khi xác định hành vi chứa mại dâm, cần lưu ý những điều sau: Chứa mại dâm là việc mua bán dâm, tức là phải có cả người mua lẫn người bán và hai người phải thực hiện hành vi giao cấu, bởi vì bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác, còn mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu. Nếu chỉ có hành vi chứa người bán dâm mà hành vi bán dâm được thực hiện ở địa điểm khác thì không được coi là tội chứa mại dâm.
Trường hợp dùng tiền thuê địa điểm, trả tiền cho người bán dâm nhưng để người khác giao cấu với người bán dâm thì cũng bị coi là hành vi chứa mại dâm.
Trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ…gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội chứa mại dâm.
2.2.3. Trường hợp cấu thành 02 tội: Chứa mại dâm và môi giới mại dâm
Trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ… vừa gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ của mình vừa gọi gái mại dâm khác cho khách mua dâm khác để họ thực hiện hành vi mua bán dâm tại địa điểm khác thì người đó phải chịu TNHS về 02 tội: Tội chứa mại dâm và tội môi giới mại dâm.
2.2.4. Trường hợp không được coi là chứa mại dâm
Theo Pháp lệnh phòng chống mại dâm năm 2003 thì trường hợp chứa hai người đồng giới để họ giao cấu với nhau thì không có hành vi giao cấu và không bị coi là hành vi chứa mại dâm. Quy định này của Pháp lệnh là bất cập, khi mà Bộ luật hình sự 2015 đã có cách nhìn khác về giao cấu và hành vi quan hệ tình dục, khi thực tiễn mại dâm đồng tính đang phát triển mạnh ở nước ta.
2.2. Hậu quả
Đối với tội chứa mại dâm, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên nếu gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội phải bị truy cứu TNHS theo các khung hình phạt nặng hơn của điều luật này.
3. Mặt chủ quan của tội chứa mại dâm
Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm các yếu tố: Lỗi, mục đích, động cơ phạm tội.
3.1. Lỗi
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý
– Trường đại học luật Hà Nội (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập 1, Nxb. CAND, tr.136.-
Hành vi chứa mại dâm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội đã biết rõ việc sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện là nhằm thực hiện hành vi mua bán dâm. Người phạm tội cũng nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng được pháp luật hình sự bảo vệ nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi.
Nếu người cho thuê, cho mượn địa điểm không hề biết mục đích của người thuê, mượn địa điểm là để thực hiện hành vi mua bán dâm thì không bị truy cứu TNHS về tội chứa mại dâm.
3.2. Động cơ và mục đích phạm tội
Đây không phải là dấu hiệu định tội bắt buộc, nhưng khi quyết định hình phạt và xem xét tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi thì những yếu tố này là cần thiết.
Động cơ của người phạm tội chứa mại dâm chủ yếu là do tư lợi, muốn kiếm được nhiều tiền hoặc giá trị vật chất khác, ngoài ra cũng có thể là các động cơ cá nhân khác như làm vui lòng bạn bè, lấy lòng sếp, hay cũng chỉ để thỏa mãn thú vui bệnh hoạn của mình…
4. Chủ thể của tội chứa mại dâm
Chủ thể của tội chứa mại dâm là chủ thể thường. Chủ thể của tội phạm là người không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS khi phạm tội, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội chứa mại dâm.
Xem thêm: Hiểu thế nào là không có năng lực trách nhiệm hình sự?.
Để xác định một người có đủ điều kiện về chủ thể của tội phạm hay không thì phải xem xét đến tình trạng năng lực TNHS và độ tuổi của người đó.
4.1. Không thuộc trường hợp không có năng lực TNHS
Chủ thể của tội phạm là người không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người bị bênh tâm thần hay bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình khi phạm tội thì không phải là chủ thể của tội phạm.
Người thực hiện hành vi chứa mại dâm, nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi đó, chính là khả năng kiềm chế được hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện và khả năng lựa chọn xử sự khác không nguy hiểm cho xã hội. Độ tuổi cũng là một dấu hiệu quan trọng xác định năng lực chủ thể.
4.2. Chủ thể của tội phạm phải từ 16 tuổi trở lên
Chủ thể của tội chứa mại dâm không phải là chủ thể đặc biệt mà có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên.
Theo quy định tại điều 12 BLHS 2015: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
Cũng theo khoản 2 điều 12 BLHS 2015 thì Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chứa mại dâm. Đây cũng là một trong những điều khác biệt của BLHS 2015 so với BLHS 1999, theo BLHS 1999 thì tội chứa mại dâm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là đủ 14 tuổi trở lên./.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017)”
- Một số ý kiến về quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể theo Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. Mai Thị Thủy
- Một số đề xuất hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật Hình sự 2015 – TS. Phan Anh Tuấn
- Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt theo quy định Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi bị kết án theo Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Xóa án tích theo quyết định của Tòa án theo quy định Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
Nếu bạn có thắc mắc, câu hỏi cần giải đáp, hãy để lại comment ở phần bình luận nhé! Thân ái!
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Nguyễn Lan Anh says
Nếu bạn có thắc mắc, câu hỏi cần giải đáp, hãy để lại comment ở phần bình luận nhé! Thân ái!