Chủ thể của tội phạm là gì? Các loại chủ thể đặc biệt trong tội phạm
Tác giả: Nguyễn Ngọc Hòa
1. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể nhưng không phải ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm khi thực hiện hành vi được quy định trong luật hình sự. Tội phạm theo luật hình sự Việt Nam phải có tính có lỗi. Để có thể có lỗi khi thực hiện hành vi khách quan đòi hỏi chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo yêu cầu của xã hội. Hai năng lực này có thể được gọi chung trong luật hình sự là năng lực lỗi. Tuy nhiên, không phải ai có năng lực lỗi đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự được Nhà nước quy định và thể hiện chính sách hình sự của quốc gia, trong đó có chính sách về độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo đó, chủ thể của tội phạm còn đòi hỏi phải đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Xem thêm bài viết về “Tội phạm“
- Mặt khách quan của tội phạm là gì? Phân tích các yếu tố cấu thành trong mặt khách quan của tội phạm? – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Đối tượng tác động của tội phạm là gì? Phân loại đối tượng tác động của tội phạm? – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Khách thể của tội phạm là gì? Phân loại khách thể của tội phạm? – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- [SO SÁNH] Phân biệt tội phạm và các vi phạm pháp luật khác – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Các căn cứ phân loại tội phạm theo Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
Như vậy, chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực lỗi và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Người thoả mãn cả hai điều kiện này được coi là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Trong đó, năng lực lỗi là năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và năng lực điều khiển được hành vi theo đòi hỏi của xã hội, còn độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là độ tuổi được luật hình sự quy định tùy thuộc vào chính sách hình sự của quốc gia vào từng thời điểm.
Từ đó có thể định nghĩa: “Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm theo luật định khi thực hiện hành vi phạm tội.”
Điều 8 Bộ luật Hình sự khi định nghĩa khái niệm tội phạm xác định chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự (“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự … thực hiện …).
Điều 8 Bộ luật Hình sự còn quy định chủ thể thứ hai thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là pháp nhân thương mại. Tuy nhiên, quy định này chỉ có nghĩa, pháp nhân thương mại khi phải chịu trách nhiệm hình sự (về tội cụ thể có quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại) do thoả mãn điều kiện chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 75 Bộ luật Hình sự thì cũng bị coi là đã thực hiện tội phạm. Pháp nhân thương mại chỉ là chủ thể của trách nhiệm hình sự về tội phạm mà chủ thể thực hiện là con người. Con người là chủ thể thực hiện tội phạm và cũng là chủ thể chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đã thực hiện đó. Pháp nhân thương mại tuy không phải là chủ thể thực hiện tội phạm nhưng có thể vẫn là chủ thể của trách nhiệm hình sự về tội phạm do “người có năng lực trách nhiệm hình sự” thực hiện nếu pháp nhân thương mại có quan hệ với người thực hiện tội phạm (nhân danh pháp nhân thương mại) và với tội phạm đã thực hiện (vì lợi ích của pháp nhân thương mại) như Điều 75 Bộ luật Hình sự quy định.
Ngoài năng lực trách nhiệm hình sự, chủ thể của một số tội phạm còn đòi hỏi có thêm dấu hiệu đặc biệt khác vì chủ thể chỉ có thể thực hiện được hành vi phạm tội của những tội này khi có những dấu hiệu đó. Ví dụ: Chỉ những người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến tài sản mới có thể thực hiện được hành vi tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý (Điều 353 Bộ luật Hình sự). Chủ thể của tội phạm đòi hỏi thêm dấu hiệu đặc biệt đó được gọi là chủ thể đặt biệt của tội phạm.
2. Các loại chủ thể đặc biệt trong tội phạm
Cấu thành tội phạm của tất cả các tội phạm đều đòi hỏi chủ thể phải có năng lực trách nhiệm hình sự (đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc trường hợp trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự). Một số cấu thành tội phạm đòi hỏi chủ thể phải có thêm dấu hiệu đặc biệt khác vì chỉ chủ thể có dấu hiệu này mới có thể thực hiện được hành vi phạm tội mà cấu thành tội phạm phản ánh.
Chủ thể đòi hỏi phải có thêm dấu hiệu đặc biệt như vậy được gọi là chủ thể đặc biệt.
Việc quy định chủ thể đặc biệt không phải là để truy cứu trách nhiệm hình sự người có đặc điểm nhất định về nhân thân mà vẫn nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi nguy hiểm cho xã hội và hành vi đó chỉ có thể được thực hiện bởi người có đặc điểm nhất định về nhân thân.
Theo luật hình sự Việt Nam, những đặc điểm nhất định đó có thể thuộc những loại sau:
– Các đặc điểm liên quan đến chức vụ, quyền hạn. Ví dụ: Tội tham ô (Điều 353 Bộ luật Hình sự), tội nhận hối lộ (Điều 354 Bộ luật Hình sự)…;
– Các đặc điểm liên quan đến nghề nghiệp, tính chất công việc. Ví dụ: Tội vi phạm quy định điều khiển tàu bay (Điều 277 Bộ luật Hình sự), tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 284 Bộ luật Hình sự)…;
– Các đặc điểm liên quan đến nghĩa vụ phải thực hiện. Ví dụ: Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 332 Bộ luật Hình sự); tội không chấp hành án (Điều 380 Bộ luật Hình sự)…;
– Đặc điểm về quan hệ gia đình, họ hàng. Ví dụ: Tội loạn luân (Điều 184 Bộ luật Hình sự), tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 186 Bộ luật Hình sự) v.v..
Ngoài các trường hợp trên đây, Bộ luật Hình sự còn quy định một số dấu hiệu khác cho chủ thể của tội phạm ở một số tội phạm. Trong đó có dấu hiệu được quy định nhằm thu hẹp phạm vi phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội. Ví dụ: Dấu hiệu “đủ 18 tuổi trở lên” ở tội dâm ô với người dưới 16 tuổi (Điều 146 Bộ luật Hình sự). Trường hợp này cũng được coi là không trái với nguyên tắc chung khi quy định dấu hiệu đặc biệt của chủ thể.
Trường hợp quy định thêm dấu hiệu đặc biệt của chủ thể mà có ý kiến khác nhau là trường hợp quy định dấu hiệu đặc biệt của chủ thể để thay thế cho dấu hiệu hậu quả thiệt hại. Ví dụ: Dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính” ở tội trộm cắp tài sản (Điều 173 Bộ luật Hình sự) (dấu hiệu này thay cho dấu hiệu “tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng). Hiện có ý kiến cho rằng, cần phải xem xét lại trường hợp này vì quy định (1) như vậy là không phù hợp với nguyên tắc chung.
Những đặc điểm nêu trên, khi đã được quy định trong cấu thành tội phạm thì trở thành dấu hiệu bắt buộc và có ý nghĩa trong việc định tội danh. Nhưng cần chú ý rằng trong những vụ đồng phạm, những đặc điểm đó chỉ đòi hỏi ở những người thực hiện tội phạm (người thực hành). Những người đồng phạm khác (tổ chức, xúi giục, giúp sức) không đòi hỏi phải có những dấu hiệu đặc biệt của chủ thể đặc biệt. Ví dụ: Người không có chức vụ, quyền hạn có thể xúi giục người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến tài sản tham ô tài sản…
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời