Mục lục
Khi Cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm, sẽ có 03 trường hợp xảy ra: Hoặc khởi tố vụ án hình sự hoặc tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Vậy có bao nhiêu căn cứ không khởi tố vụ án hình sự. Chúng ta hãy cùng nhau đi tìm hiểu!
Xem thêm bài viết về “Không khởi tố vụ án”
Xem thêm bài viết về “Vụ án hình sự”
- Một số vướng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự – ThS. Dương Thị Diệu Hiền
- Một số điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về bị hại, đương sự trong vụ án hình sự – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Ngô Quang Cảnh
- Quy định về Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quy định về Người chứng kiến trong vụ án hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Quy định về Bị đơn dân sự trong vụ án hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
Theo quy định tại Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS năm 2015) quy định về các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự thì:
Có 08 căn cứ không khởi tố vụ án hình sự gồm:
- Không có sự việc phạm tội;
- Hành vi không cấu thành tội phạm;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
- Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định định chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Tội phạm đã được đại xá;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
- Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
1. Không có sự việc phạm tội
Trường hợp mà sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành kiểm tra, xác minh và có đủ căn cứ xác định sự việc được nêu trong các nguồn tin này không phải là sự việc phạm tội.
Có hai trường hợp xác định không có sự việc phạm tội gồm:
1.1. Có sự việc xảy ra nhưng không phải do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra.
Ví dụ: Sáng tỉnh dậy, Hoàng Thị N phát hiện xe ô tô của mình dựng trước nhà bị bể kính, nghĩ rằng bị kẻ gian hãm hại nên chị N báo Công an. Sau khi thực hiện các biện pháp điều tra, Cơ quan điều tra nhận thấy việc ô tô bị bể kính là do bị cành cây khô rơi trúng chứ không có hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản” nên quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
1.2. Không có sự việc xảy ra như nguồn tin tội phạm đã tiếp nhận.
Ví dụ: Phan Văn A cho Huỳnh Văn N mượn xe mô tô. Sau đó, A không thấy N trả lại xe, gọi điện thoại thì không liên lạc được với N. Nghĩ rằng mình bị N “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” nên A đến Cơ quan công an trình báo sự việc. Qua điều tra, Cơ quan điều tra xác định N không trả được xe cho A là do bị tai nạn, N không có ý định chiếm đoạt tài sản của A nên ra quyết định không khởi tố vụ án.
2. Hành vi không cấu thành tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự. Do đó, nếu hành vi mặc dù nguy hiểm cho xã hội nhưng không được quy định trong Bộ luật hình sự hoặc có quy định trong Bộ luật hình sự nhưng hành vi đó không đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì hành vi đó không cấu thành tội phạm nên người thực hiện nó không phải chịu TNHS.
Hành vi không cấu thành tội phạm có thể thiếu một hoặc một số yếu tố cấu thành tội phạm.
Ví dụ: Ngày 21/09, Trần Thành Đ trộm cắp xe mô tô thì bị phát hiện bắt quả tang. Tuy nhiên, qua định giá tài sản xác định giá trị tài sản trộm cắp chỉ có giá 1.900.000 đồng và Đ không có tiền án, tiền sự về các tội xâm phạm sở hữu nên hành vi trộm cắp của Đ không đủ định lượng để cấu thành tội phạm (dưới 2.000.000 đồng). Do đó, Cơ quan điều tra quyết định không khởi tố vụ án hình sự về hành vi trộm cắp của Đ.
3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141-144, 150-151, 168-171, 173, 178, 248-252, 265-266, 286-290, 299, 303 và 304 BLHS năm 2015.
Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nếu dưới 14 tuổi hoặc từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nhưng phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng hoặc mặc dù phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng nhưng không thuộc các trường hợp nêu trên thì không phải chịu TNHS.
Người chưa đến tuổi chịu TNHS thực hiện hành vi nguy hiểm thì không truy cứu TNHS. Do đó, trường hợp này không khởi tố vụ án hình sự.
Ví dụ: Ngày 22/12, Nguyễn Văn A (13 tuổi) dùng dao đâm chết bạn cùng lớp. Nhưng do A chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không xử lý hình sự đối với hành vi “Giết người” của A.
4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật
4.1. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án có hiệu lực pháp luật
Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án có hiệu lực pháp luật được hiểu là: Trường hợp hành vi phạm tội của người phạm tội đã bị xử lý rồi (họ đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình bằng Bản án đã có hiệu lực pháp luật). Nên họ không bị xử lý đối với hành vi phạm tội đó nữa.
Ví dụ: Tháng 01/2020, Trần Mộng B trình báo đến Công an phường trình báo về việc bị A “Lừa đảo chiếm đoạt 10.000.000 đồng”. Qua xác minh làm rõ, Cơ quan điều tra xác định được B đã bị Tòa án nhân dân thành phố H tuyên phạt 02 năm tù về hành vi trên từ 02 năm trước nên Cơ quan điều tra ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự đối với vụ việc.
4.2. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật
Người mà hành vi phạm tội của họ đã có quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật được hiểu là trường hợp người đó đã có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật đối với vụ án hình sự đối với hành vi phạm tội của họ. Quyết định đình chỉ này có thể do:
- CQĐT đình chỉ điều tra vụ án theo quy định tại Điều 234 BLTTHS năm 2015 hoặc khi hết thời hạn điều tra nhưng không chứng minh được bị can phạm tội.
- Vụ án đã được Viện kiểm sát đình chỉ theo quy định tại Điều 248 BLTTHS năm 2015.
- Vụ án đã được Tòa án đình chỉ theo quy định tại Điều 282 BLTTHS năm 2015.
Ví dụ: Nguyễn Lan A yêu cầu xử lý hình sự đối với hành vi gây thương tích của B đối với mình. Qua xác minh, Cơ quan điều tra xác định: đối với hành vi “Cố ý gây thương tích” nêu trên, trước đây A đã trình báo, vụ án đã được khởi tố theo yêu cầu của bị hại nhưng sau đó A tự nguyện rút đơn yêu cầu nên CQĐT đã ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự đúng quy định. Nên trường hợp A yêu cầu xử lý hình sự đối với hành vi gây thương tích của B thuộc trường hợp không được khởi tố VAHS.
5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Căn cứ theo quy định tại Điều 27 BLHS năm 2015 quy định về Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa.
Đáng lé ra người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình, nhưng do cơ quan có thẩm quyền không phát hiện kịp thời nên sự việc phạm tội không được phát hiện, điều tra làm rõ mà thời hiệu để truy cứu trách nhiệm hình sự đã hết nên người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội đó nữa.
Theo đó, đối với sự việc phạm tội nếu được thụ lý, giải quyết sẽ được Cơ quan có thẩm quyền quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Ví dụ: Tháng 10/2012, Nguyễn Văn D thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với tổng giá trị là 10.000.000 đồng là cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” thuộc tội phạm ít nghiêm trọng. Đến năm 2019, Cơ quan điều tra mới phát hiện hành vi của D nhưng do đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội ít nghiêm trọng là 05 năm) nên ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
6. Tội phạm đã được đại xá
Đại xá được hiểu là một biện pháp khoan hồng của Nhà nước nhằm tha tội hoàn toàn với triệt để cho những người đã phạm tội một số loại tội nhất định vào những dịp quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước.
Theo quy định tại khoản 11, Điều 70 Hiến pháp năm 2013, Quốc hội là cơ quan có quyền quyết định đại xá. Trong mọi trường hợp với tội phạm đã được đại xá thì không được khởi tố vụ án hình sự.
Ví dụ: Tháng 10/2018, Trần Thị L thực hiện hành vi “Cố ý gây thương tích” thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đến tháng 01/2019, giả sử Quốc hội ra quyết định đại xá đối với tội Cố ý gây thương tích. Do đó, mặc dù tháng 12/2019, Cơ quan điều tra có phát hiện ra hành vi phạm tội của L nhưng do hành vi này đã được đại xá nên không được truy cứu hình sự đối với L mà phải ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác
Khi người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chết thì việc truy cứu TNHS đối với họ không được đặt ra. Bởi vì, khi truy cứu TNHS đối với họ thì việc xử lý đối với họ không đạt được mục đích, nhiệm vụ của tố tụng hình sự.
Ví dụ: Đặng Văn T điều khiển xe mô tô lưu thông ngược chiều va chạm với Đoàn Văn H cũng điều khiển xe mô tô đang lưu thông theo chiều ngược lại (đúng pháp luật), làm T và H tử vong. Mặc dù, hành vi của T cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” (thuộc trường hợp gây chết người) mà đáng lẽ ra phải truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng do T đã chết nên Cơ quan điều tra không khởi tố vụ án hình sự để xử lý T.
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của Bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra Bản án, quyết định đó. Đối với trường hợp này, pháp luật cho phép khởi tố vụ án cả khi người thực hiện hành vi phạm tội đã chết.
Ví dụ: Đối với vụ việc trên, mặc dù biết Đặng Văn T là người chưa có bằng lái xe nhưng K vẫn giao xe mô tô cho T nên Tòa án quyết định tái thẩm vụ việc, hủy việc không khởi tố của CQĐT để khởi tố vụ án “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố
Đối với các vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại (Điều 155 BLTTHS năm 2015) thì chỉ được khởi tố vụ án khi bị hại có yêu cầu xử lý hình sự. Do đó, nếu bị hại không yêu cầu thì không được khởi tố vụ án mà phải quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Ví dụ: Hoàng Minh P dùng dao chém Q gây thương tích 02% thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Tuy nhiên, Q thấy vết thương không lớn lại quen biết với P nên không yêu cầu xử lý hình sự đối với P. Vì vậy, Cơ quan điều tra ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự đối với vụ việc.
Trên đây là bài viết “08 căn cứ không khởi tố vụ án hình sự”. Nếu bạn có câu hỏi hoặc thắc mắc cần giải đáp, hãy để lại bình luận ở phần Comment nhé!. Cảm ơn rất nhiều!
Luật sư Quang Thanh says
Cảm ơn bạn, bài viết rất chi tiết!