Chúng ta đều biết chứng cứ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc chứng minh tình tiết, hành vi phạm tội. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết để nguồn chứng cứ trở thành chứng cứ cần phải thỏa mãn các thuộc tính của chứng cứ gồm: tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan.
Xem thêm bài viết về “Chứng cứ”
- Một số điểm mới về chứng cứ trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Trịnh Duy Thuyên
- Cơ chế đánh giá chứng cứ trong trường hợp các kết luận giám định có kết quả khác nhau – PGS.TS. Trần Văn Độ
- Một số vấn đề về chứng cứ trong thủ tục giải quyết tranh chấp tại các cơ quan tài phán quốc tế – Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam – TS. Trần Thăng Long
- Căn cứ hủy phán quyết trọng tài liên quan đến chứng cứ và sự khách quan của trọng tài viên trong tố tụng trọng tài – Bất cập và hướng hoàn thiện – ThS. Phan Thông Anh
- Phân loại chứng cứ và ý nghĩa của việc phân loại chứng cứ – LS. Nguyễn Lan Anh
Chứng cứ là gì?
Tại Điều 86 BLTTHS năm 2015 đã đưa ra khái niệm chứng cứ như sau:
Từ khái niệm pháp lý về chứng cứ nêu trên thì để thông tin, tài liệu, đồ vật được sử dụng làm chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải đảm bảo có ba thuộc tính sau đây: tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan tới vụ án hình sự.
1. Tính hợp pháp
Chứng cứ có tính hợp pháp bởi việc giải quyết vụ án hình sự không thể tách rời quá trình nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ.
Quá trình này lại phức tạp vì thế pháp luật phải quy định cụ thể những vấn đề liên quan đến chúng thì mới có thể làm cho việc giải quyết vụ án hình sự đúng với bản chất của nó. Tính hợp pháp của chứng cứ yêu cầu chứng cứ phải được xác định từ những nguồn chứng cứ và được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo đúng quy định của Luật Tố tụng hình sự.
Chứng cứ phải được xác định từ những nguồn chứng cứ và được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo đúng quy định của Luật Tố tụng hình sự.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 87 BLTTHS năm 2015 thì nguồn chứng cứ bao gồm:
- Vật chứng
- Lời khai, lời trình bày
- Dữ liệu điện tử
- Kết luận giám định, định giá tài sản
- Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
- Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác
- Các tài liệu, đồ vật khác.
Chứng cứ do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập phải được thu thập bằng các hoạt động điều tra (khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, trưng cầu giám định, lấy lời khai, hỏi cung, khám xét, thực nghiệm điều tra,… ) hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác; cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của BLTTHS năm 2015.
Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày.
Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo đúng quy định tại Điều 133 BLTTHS năm 2015.
Việc bảo quản, kiểm tra, đánh giá chứng cứ phải đúng theo trình tự, thủ tục do BLTTHS năm 2015 quy định.
2. Tính khách quan (xác thực)
Chứng cứ có tính khách quan bởi chứng cứ là cơ sở để nhận thức vụ việc. Để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự phải nhận thức được sự thật của vụ án hình sự. Sự thật của vụ án hình sự chỉ có thể được xác định dựa trên những sự kiện, tài liệu phản ánh cái có thật. Chủ nghĩa Mác- Leenin đã chỉ rõ hiện thực khách quan là cơ sở của nhận thức. “Người mác-xít chỉ có thể sử dụng để làm căn cứ cho chính sách của mình những sự thật được chứng minh rõ tệt và không thể chối cãi được”.
Nếu dựa vào những gì mà chưa xác định được tính chân thực khách quan để ra các quyết định giải quyết vụ án đều có thể đem lại những sai lầm. Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy đã có nhiều vụ án oan sai, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là do thiếu tôn trọng sự thật, vi phạm nguyên tắc khách quan.
Tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải là những gì có thật, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người, không phụ thuộc vào khả năng con người có nhận biết được hay không. Những gì là suy đoán, tưởng tượng, giả thuyết… không tồn tại trong hiện thực khách quan thì không coi là chứng cứ. Những phản ánh sai lệch, những thông tin giả tạo, xuyên tạc sự thật không được dùng làm chứng cứ để xác định những tình tiết của vụ án.
Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự phải tôn trọng sự thật khách quan, phải thẩm tra xác minh những tài liệu thu được, chỉ dùng làm chứng cứ khi những tài liệu thu được phản ảnh cái có thật, kiên quyết chống định kiến chủ quan hoặc làm giả tài liệu, phải kịp thời phát hiện những hành vi làm giả tài liệu, phải kịp thời phát hiện những hành vi làm giả tài liệu, chứng cứ.
Xác định được tính khách quan của chứng cứ, trong quá trình giải quyết vụ án sẽ loại bỏ được những cái không có thật, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, đúng đắn.
3. Tính liên quan
Xác định tính liên quan là một trong các thuộc tính cơ bản của chứng cứ xuất phát từ tính hiệu quả của hoạt động tố tụng hình sự, yêu cầu của hoạt động tố tụng hình sự và quy định tại Điều 85 BLTTHS năm 2015 về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự. Do đó, cần phải xác định xem tài liệu nào là có liên quan đến vụ án và chỉ dùng để chứng minh về vụ án hình sự khi xác định được tính liên quan đến vụ án hình sự đó.
Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ tài liệu thu được phải có mối liên hệ khách quan với những sự kiện cần phải chứng minh trong vụ án hình sự, giúp cho nhận thức về vụ án hình sự, làm rõ những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự. Đây là mối liên hệ giữa sự kiện dùng làm căn cứ để chứng minh với những sự kiện cần phải chứng minh làm sáng tỏ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Mối quan hệ ở đây có thể ở những mức độ khác nhau như quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp, quan hệ nhân – quả, quan hệ theo không gian – thời gian,… Nếu những gì có thật nhưng không liên quan đến vụ án hình sự thì không được dùng làm chứng cứ.
Thực tiễn hoạt động giải quyết các vụ án hình sự cho thấy khi vụ án hình sự xảy ra có thể thu được rất nhiều sự kiện, tài liệu. Do đó, khi giải quyết vụ án hình sự (nhất là trong giai đoạn điều tra ban đầu) phải thu thập rộng rãi những thông tin, tài liệu nhưng cũng phải kịp thời sàng lọc phát hiện những tài liệu có liên quan đến vụ án hình sự đang cần phải làm rõ để tránh thu thập tràn lan, tốn kém thì giờ và công sức. Chỉ sử dụng những gì được xác định là có liên quan đến vụ án hình sự để giải quyết vụ án hình sự.
Khi chưa xác định được tính liên quan của tài liệu đã thu được mà sử dụng tùy tiện thì sẽ mắc sai lầm trong việc giải quyết vụ án hình sự. Việc xác định tính liên quan của tài liệu đã thu thập được trong vụ án phải căn cứ vào các quy luật khách quan, tuyệt đối không được áp đặt tính liên quan bằng sự suy diễn chủ quan của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự trong quá trình đánh giá các tài liệu thu thập được.
Trong các thuộc tính của chứng cứ, thuộc tính nào là quan trọng nhất?
Trong các thuộc tính của chứng cứ thì không có thuộc tính nào là quan trọng nhất vì những thông tin, tài liệu, đồ vật được coi là chứng cứ buộc phải có đầy đủ cả 03 thuộc tính trên.
Mỗi thuộc tính đều thể hiện những khía cạnh khác nhau của chứng cứ. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thiếu bất kỳ thuộc tính nào thì không được coi là chứng cứ.
Nếu xét trong quan hệ nội tại giữa các thuộc tính của chứng cứ thì tính hợp pháp là hình thức của chứng cứ, còn tính khách quan và tính liên quan là nội dung của chứng cứ.
Nếu có câu hỏi hoặc bình luận về bài viết, vui lòng để lại ý kiến của bạn ở phần Comment nhé! Cảm ơn rất nhiều!
Bạn vui lòng cập nhật ảnh cho bài viết nhé!
Em đã cập nhật xong!