Các nhiệm vụ (chức năng) của Luật hình sự
Tác giả: Nguyễn Ngọc Hòa
Trong sách báo pháp lí, nhiệm vụ của luật hình sự thường được nói đến khi các tác giả viết về ngành luật hình sự và trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, Điều 1 cũng đề cập nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, vì luật hình sự được xem là “công cụ nên nói chức năng của luật hình sự phù hợp hơn so với nói nhiệm vụ của luật hình sự. Với nội dung của ngành luật hình sự được nêu trên có thể rút ra chức năng của luật hình sự là phương tiện chống và phòng ngừa tội phạm, là phương tiện bảo vệ và giáo dục. Với cách nói tắt thì luật hình sự có các chức năng: Chức năng chống và phòng ngừa tội phạm, chức năng bảo vệ và chức năng giáo dục. Các chức năng này tuy có nội dung riêng nhưng không độc lập hoàn toàn mà có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Xem thêm bài viết về “Chức năng/Nhiệm vụ”
- Chức năng Nhà nước là gì? Phân tích Chức năng của nhà nước? – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Vị trí, tính chất và chức năng của Chính phủ – ThS. Phạm Thị Tình
- Bản chất, chức năng và hình thức Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Phân tích chức năng bảo vệ Tổ quốc của Nhà nước CHXNCN Việt Nam – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Chức năng bảo hiến của Tòa án nhân dân theo Hiến pháp 2013 – PGS.TS. Trần Văn Độ
1. Chức năng chống và phòng ngừa tội phạm của luật hình sự
Chống tội phạm và phòng ngừa tội phạm là hai hoạt động tuy có nội dung khác nhau nhưng không tách rời nhau. Trong đó, chống tội phạm là hoạt động trực diện với tội phạm – hoạt động phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử tội phạm. Phòng ngừa tội phạm bao gồm nhiều hoạt động khác nhau nhằm ngăn ngừa không để cho tội phạm xảy ra và đều có quan hệ mật thiết với hoạt động chống tội phạm. Chống tội phạm có hiệu quả không chỉ có tác dụng răn đe, ngăn ngừa tội phạm mà còn có thể định hướng cho các hoạt động phòng ngừa tội phạm. Do vậy, hoạt động chống tội phạm cũng được coi là hoạt động phòng ngừa tội phạm đặc biệt. Hoạt động chống và phòng ngừa tội phạm phải dựa trên cơ sở pháp lý chung hay nói cách khác là đều phải sử dụng công cụ pháp lý chung là luật hình sự. Hiệu quả của chống và phòng ngừa tội phạm phụ thuộc một phần quan trọng vào độ hoàn thiện của luật hình sự. Do vậy, luật hình sự đã được coi “là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm…”. Chức năng chống và phòng ngừa tội phạm của luật hình sự được khẳng định rõ tại Điều 1 Bộ luật Hình sự. Để thực hiện tốt chức năng chống và phòng ngừa tội phạm đòi hỏi luật hình sự phải luôn luôn được hoàn thiện theo sát sự thay đổi của tình hình tội phạm, đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tội phạm.
2. Chức năng bảo vệ của luật hình sự
Qua chức năng chống và phòng ngừa tội phạm, luật hình sự đồng thời có chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội quan trọng cần thiết cho sự ổn định và phát triển của xã hội trước sự xâm hại của tội phạm. Ngành luật hình sự là công cụ pháp lý “góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao”.
Đối tượng bảo vệ của ngành luật hình sự đều được xác định rõ ràng trong các Bộ luật Hình sự: Bộ luật Hình sự năm 1985, Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015, đối tượng bảo vệ của luật hình sự là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật. Để thực hiện tốt chức năng bảo vệ của mình, ngành luật hình sự cần phải xác định đúng, đầy đủ và kịp thời những hành vi có thể gây nguy hiểm cho các đối tượng bảo vệ để quy định là tội phạm. Có như vậy ngành luật hình sự mới có thể trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu bảo vệ các quan hệ xã hội đã được xác định qua việc chống và phòng ngừa một cách toàn diện tất cả các tội phạm, không có hành vi nào nguy hiểm (ở mức tội phạm) cho đối tượng bảo vệ của ngành luật hình sự bị bỏ qua.
Xem thêm bài viết về “Khoa học Luật Hình sự“
- 7 Nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế – ThS. LS. Nguyễn Thanh Hiền
- Từ khởi nguồn đến kết thúc của Luật Hình sự – TS. Trịnh Tiến Việt
- Luật Hình sự là gì? Thế nào là quy phạm pháp luật hình sự? – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
3. Chức năng giáo dục của luật hình sự
Chống tội phạm qua việc xử phạt người phạm tội (cũng như pháp nhân thương mại trong trường hợp nhất định) không chỉ nhằm trừng trị mà còn nhằm mục đích giáo dục họ và giáo dục mọi người nói chung. Do vậy, ngành luật hình sự không chỉ là công cụ chống tội phạm mà còn có chức năng giáo dục. Cũng chính qua chức năng giáo dục mà ngành luật hình sự có thể thực hiện được chức năng phòng ngừa tội phạm của mình. Ngành luật hình sự không chỉ là công cụ răn đe người phạm tội mà còn răn đe cả những người khác và qua đó giáo dục người phạm tội cũng như mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, tránh các hành vi phạm tội. Ngành luật hình sự cũng là công cụ giáo dục ý thức tham gia chống và phòng ngừa tội phạm cho tất cả mọi người với vai trò là công dân cũng như với vai trò là thành viên của cơ quan hay tổ chức. Chức năng giáo dục của ngành luật hình sự dựa trên cơ sở chức năng chống tội phạm nhưng đồng thời cũng là cơ sở cho chức năng phòng ngừa tội phạm và chức năng bảo vệ của ngành luật này.
Chức năng giáo dục của ngành luật hình sự được xác định cụ thể tại Điều 1 và Điều 31 Bộ luật Hình sự (Điều 1. Nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự quy định: “… giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.”; Điều 31. Mục đích của hình phạt quy định: “… mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, …giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.”).
Trả lời