Mục lục
Nhân thân người phạm tội bao gồm các đặc điểm nhân cách tiêu cực dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội được hình thành trong quá trình tương tác giữa môi trường sống với đặc điểm tâm sinh lý mỗi cá nhân. Bên cạnh đó, nhân thân người phạm tội còn có các đặc điểm, dấu hiệu đặc trưng cho chính nhân thân đó mà trong một con người bình thường không có. Các đặc điểm dấu hiệu này có vai trò quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội. Cũng cần phải lưu ý rằng bản chất sự khác nhau giữa nhân thân người phạm tội và nhân thân người không phạm tội được xem xét trong tổng thể các đặc điểm dấu hiệu nhất định của nó chứ không phải được xác định bởi các dấu hiệu riêng biệt (như trình độ học vấn thấp, lợi ích hẹp hòi, thái độ không tốt đối với lao động…), vì các dấu hiệu này cũng thể hiện ở ngay cả trong nhân thân của những người không phạm tội. Vậy đặc điểm nhân thân người phạm tội bao gồm những gì? Chúng ta cùng đi tìm hiểu! Let’s go!
Có nhiều cách phân loại các nhóm đặc điểm nhân thân người phạm tội khác nhau, đề làm rõ một cách toàn diện về nhân thân người phạm tội và để đánh giá được đặc điểm nhân thân trong tổng hoà các mối quan hệ xã hội cũng như đặc điểm tâm sinh lý của người phạm tội, chúng ta có thể phân loại thành 03 đặc điểm như sau:
– Đặc điểm xã hội – nhân khẩu;
– Đặc điểm xã hội – tâm lý;
– Đặc điểm xã hội – pháp lý.
Để chỉ ra đặc điểm nhân thân người phạm tội, chúng ta phải làm rõ cơ sở lý luận của 3 nhóm đặc điểm trên của người phạm tội.
Xem thêm bài viết về
1. Các đặc điểm xã hội – nhân khẩu
Đặc điểm xã hội – nhân khẩu là những đặc điểm mang dấu hiệu bên ngoài như:
- Giới tính;
- Lứa tuổi;
- Nơi ở;
- Nghề nghiệp;
- Hoàn cảnh gia đình;
- Thành phần gia đình;
- Hoàn cảnh kinh tế gia đình;
- Nơi cư trú;
- Quan hệ xã hội.
Bản thân mỗi người chúng ta đều mang những đặc điểm xã hội nhân khẩu như vậy, bản thân các đặc điểm này không khẳng định cá nhân ai đó phạm tội. Một cá nhân nào đó phạm tội khi có các đặc điểm nhân thân tiêu cực được hình thành trong quá trình sống và khi gặp tình huống dẫn đến hành vi phạm tội thì những đặc điểm này ở một chừng mực nào đó ảnh hưởng nhất định đến quá trình hình thành nhân thân tiêu cực của người phạm tội.
1.1. Giới tính
Đặc điểm giới tính xác định người phạm tội là nam giới hay nữ giới. Qua nghiên cứu tỷ lệ giữa nam giới và nữ giới trong việc phạm tội, tỷ lệ nam giới phạm tội bao giờ cũng cao hơn và mang tính chất “ổn định” hơn. Cho thấy có thể xác định được đặc trưng của nam giới là dễ bị ảnh hưởng của môi trường và điều kiện sống để hình thành những đặc điểm tâm lý tiêu cực hoặc dễ bị thói hư tật xấu trong xã hội nhiều hơn nữ giới. Thông thường, cứ 100 người phạm tội, nữ giới chỉ có 6 đến 10 người.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, cơ cấu phạm tội theo giới tính đang có sự thay đổi. Tỷ lệ phạm tội nữ giới có xu hướng tăng lên và các loại tội phạm do họ thực hiện ngày càng đa dạng.
Ngoài những tội phạm chủ yếu mà trước đây nữ giới thường phạm tội là: Tội trộm cắp tài sản; Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; hay Tội đầu cơ…, hiện nay trong danh mục đó có thêm nhiều loại tội phạm nguy hiểm như: Tội bắt cóc trẻ em, Tội chứa mại dâm, Tội mua bán trái phép chất ma túy… đặc biệt xuất hiện một số băng nhóm tội phạm có sự tham gia của phụ nữ, thậm chí là với vai trò cầm đầu, đã gây ra nhiều vụ phạm tội rất nghiêm trọng như giết người, cướp tài sản, bắt cóc tống tiền… làm tình hình trật tự xã hội ngày càng thêm phức tạp.
1.2. Lứa tuổi
Cùng với sự biến đổi của độ tuổi là quá trình diễn ra sự thay đổi của bản thân nhân thân. Các giai đoạn phát triển khác nhau của nhân thân không phụ thuộc vào các đặc điểm độ tuổi, mà chủ yếu phụ thuộc vào các hình thức hoạt động thực tế có nội dung cụ thể của con người.
Nghiên cứu về độ tuổi trong tội phạm học chỉ ra tội phạm phổ biến ở độ tuổi nào. Sự phát triển về thể chất, tâm lý, nhận thức, tình cảm… của mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có những đặc điểm riêng khác nhau, từ đó ảnh hưởng đến hành vi con người. Tội phạm học nghiên cứu lứa tuổi nhằm xác định hai vấn đề quan trọng là:
- Lứa tuổi nào phạm tội nhiều nhất, phân bố và diễn biến của tội phạm theo lứa tuổi;
- Cơ cấu của tội phạm theo lứa tuổi.
Nghiên cứu đặc điểm lứa tuổi giúp cho việc sắp xếp ưu tiên trong các biện pháp giáo dục cải tạo, đấu tranh phòng ngừa tội giết người.
Thực tế cho thấy người phạm tội ở độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất, sau đó là những người từ 31 đến 45 tuổi và những người chưa thành niên (từ 14 đến dưới 18 tuổi), còn những người trên 45 tuổi phạm tội chiếm tỷ lệ ít hơn. Đối với từng lứa tuổi khác nhau, cơ cấu tội phạm được thực hiện cũng có những đặc trưng khác nhau. Chẳng hạn, các tội phạm mà người chưa thành niên thực hiện nhiều nhất là các tội xâm phạm sở hữu như: trộm cắp, tội cướp, tội cướp giật và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
1.3. Trình độ học vấn
Trình độ học vấn thể hiện mức độ hiểu biết, kiến thức của con người về thế giới khách quan, về xã hội về các mối quan hệ và những lĩnh vực khác nhau trong đời sống.
Tất cả những sự hiểu biết này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển trí tuệ, đến quá trình hình thành phát triển nhân cách của các nhân, tác động rất lớn lên hành vi ứng xử và cách giải quyết mâu thuẫn trong cuộc sống của mỗi người. Trong nhiều trường hợp do trình độ học vấn thấp đã tạo ra nhiều hạn chế trong việc một cá nhân xử lý các tình huống phát sinh trong cuộc sống hàng ngày, làm cho nhiều người có suy nghĩ lệch lạc, từ đó họ có những hành vi sai trái với những quy đình của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.
Ví dụ: Do trình độ thấp, còn lạc hậu nên ở một số dân tộc, khi người mẹ sinh con bị chết thì người dân sẽ chôn người con cùng với người mẹ.
Nghiên cứu trình độ học vấn của người phạm tội không chỉ hạn chế ở việc phân tích thành phần người phạm tội nói chung và so sánh với trình độ học vấn của dân số, mà cần phải nghiên cứu trình độ học vấn của từng nhóm, loại người phạm tội riêng biệt, đồng thời phải chỉ ra các mối liên hệ và phụ thuộc giữa trình độ học vấn và xu hướng phạm tội của các nhóm, loại phạm tội đó. Trên thực tế, những người phạm tội ở các nhóm khác nhau cũng có trình độ học vấn khác nhau. Những người có trình độ học vấn thấp thường phạm tội có tính chất bạo lực, côn đồ hoặc các tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội, còn những tội phạm xâm phạm kinh tế, các tội phạm chức vụ hoặc có động cơ vụ lợi do những người có trình độ văn hóa cao hơn thực hiện.
1.4. Nghề nghiệp, địa vị xã hội
Địa vị xã hội và nghề nghiệp là một đặc điểm quan trọng của nhân thân con người và nhân thân người phạm tội nói riêng. Địa vị xã hội thường gắn liền với nghề nghiệp của người đó và phụ thuộc vào trình độ học vấn của họ. Đối với người có nghề nghiệp ổn định, có địa vị xã hội cao sẽ dễ dàng có được những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách, những nhu cầu cơ bản của đời sống được bảo đảm thì sẽ hạn chế được việc xảy ra mâu thuẫn. Nghiên cứu địa vị xã hội và nghề nghiệp chỉ ra nhóm người làm việc ở những ngành, lĩnh vực nào trong xã hội dễ thực hiện tội phạm và loại tội phạm họ thực hiện. Một số nhóm tội mà đặc điểm nghề nghiệp và địa vị xã hội có ảnh hưởng khá lớn đến hành vi phạm tội như là nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, nhóm tội tham nhũng… Dấu hiệu về địa vị xã hội chỉ ra nhóm tội phạm nào phổ biến, đồng thời chúng cũng định hướng cho việc tìm hiểu và chỉ ra các yếu tố phát sinh tội phạm vốn đặc trưng cho các nhóm nghề nghiệp khác nhau của cư dân, cho các ngành kinh tế, các hình thức sản xuất khác nhau.
Trong nhân thân con người nói chung, nghề nghiệp, địa vị xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi ứng xử của mỗi người và nó thường thể hiện những phong cách riêng của từng loại người xét theo nghề nghiệp, địa vị xã hội. Theo thống kê tội phạm, đa số người phạm tội là người không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định, địa vị trong xã hội rất thấp. Đặc biệt là đối với những người phạm tội thuộc loại tái phạm, tái phạm nguy hiểm thì thường chỉ số này rất cao.
Nghiên cứu dấu hiệu địa vị xã hội và nghề nghiệp của những người phạm tội cho thấy, cần phải gắn liền và giải quyết vấn đề tội phạm trong xã hội với vấn đề giáo dục và đào tạo nghề cho người phạm tội trong quá trình cải tạo, đây là một trong những giải pháp hạn chế tình trạng tái phạm tội hiện nay.
1.5. Hoàn cảnh gia đình
Gia đình có chức năng như chức năng tái sản sinh xã hội; chức năng giáo dục… tất cả các chức năng này có mối liên hệ mật thiết và tác động lẫn nhau, trong đó chức năng giáo dục là chức năng cực kỳ quan trọng.
Thông qua gia đình, cá nhân học được các quy chuẩn, chuẩn mực xã hội và các giá trị mà xã hội đề cao. Những yếu tố quan trọng nhất trong nhân cách của một cá nhân là: nhận thức về chính mình; thái độ; sở thích; niềm tin; mục đích sống; định hướng giá trị… đều được hình thành trong khuôn khổ gia đình và thông qua vai trò của thành viên trong gia đình, nhất là bố mẹ.
Những khiếm khuyết của gia đình cộng với những yếu tố khác đã tác động đến việc thực hiện tội phạm của cá nhân. Người phạm tội thường xuất thân trong những gia đình có một số khiếm khuyết, hạn chế nhất định như sự khó khăn về kinh tế; hoàn cảnh hôn nhân; gia đình không hạnh phúc; gia đình có sự hạn chế trong kiểm soát giáo dục, quản lí đối với các thành viên; gia đình có bầu không khí xung đột căng thẳng kéo dài; sai lệch trong ý thức đạo đức; ý thức pháp luật và định hướng giá trị…
Nghiên cứu về hoàn cảnh gia đình trong nhân thân người phạm tội thường sẽ lưu ý đến những yếu tố sau:
- Quan hệ gia đình: là thông tin phản ánh về tình trạng hôn nhân của người phạm tội (kết hôn hay chưa, quan hệ vợ chồng còn cái…)
- Quan hệ với các thành viên khác trong gia đình như (ông bà, bố mẹ, anh chị em ruột…).
Các nghiên cứu về người phạm tội cho thấy, nhìn chung những người trong gia đình đã kết hôn phạm tội ít hơn những người chưa có gia đình. Phần lớn các trường hợp chính nhân tố gia đình đã có tác động tích cực đến cách ứng xử của mỗi thành viên trong gia đình đồng thời gia đình giữ vai trò kiểm soát, giám sát hành vi của mỗi thành viên trong gia đình, hạn chế tối đã các hành vi không phù hợp với chuẩn mực xã hội. Tuy nhiên, có không ít những trường hợp người phạm tội sống trong gia đình có cơ cấu không hoàn thiện (bố mẹ ly hôn, bố hoặc mẹ chết, gia đình ly tán….).
1.6. Thành phần gia đình
Nghiên cứu về thành phần gia đình trong nhân thân người phạm tội chủ yếu có ý nghĩa trong nghiên cứu các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia. Những người phạm loại tội này thường xuất thân trong gia đình có tầng lớp của giai cấp bóc lột cũ hoặc người đã có thời gian làm việc cho chính quyền cũ bị lật đổ.
1.7. Hoàn cảnh kinh tế gia đình
Nghiên cứu về hoàn cảnh kinh tế gia đình cho chúng ta những thông tin về tình trạng kinh tế gia đình của người phạm tội như: mức thu nhập, nguồn thu nhập; điều kiện nhà ở….nghiên cứu nhân thân người chưa thành niên phạm tội cho thấy: 79% các em sống trong gia đình đông con; 32,2% sống trong gia đình có hoàn cảnh nghèo đói; 40,7% sống trong gia đình đủ ăn; 24,6% sống trong gia đình có điều kiện kinh tế khá giả – GS. Trần Đại Quang, GS. Nguyễn Xuân Yêm (2013), Tội phạm học Việt Nam, tập 1, Nxb Công an nhân dân.
Số liệu này cho thấy, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn cũng là một nhân tố đã đẩy các em vào con đường phạm tội.
1.8. Nơi cư trú
Nghiên cứu nơi cư trú của nhân thân người phạm tội có ý nghĩa rất lớn trong công tác phòng ngừa tội phạm. Nơi cư trú tại thành thị hay nông thôn là nơi có lối sống khác nhau. Thành phố là nơi tập trung cơ sở văn hóa, chính trị, xã hội. Nhịp sống ở thành phố nhanh hơn, tất cả hoạt động đều diễn ra khá nhanh, điều này đã tác động đến lối ứng xử buông thả của con người. Tuy nhiên, ở nông thôn do vẫn ảnh hưởng bởi lối sống văn hóa cộng đồng, mọi người hầu như biết nhau, đây là một nhân tố mang tính giám sát xã hội, buộc cá nhân hành xử đều phải hướng đến chuẩn mực chung của cộng động, hành vi cá nhân bị chế ngự bởi những tục lệ cũng như luật bất hành văn.
Các đặc điểm của đời sống thành thị cũng xác định tính phổ biến khá cao của một số loại tội phạm. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, sự gia tăng dân số ở thành phố không tạo ra sự tăng trưởng của tội phạm ở thành phố đó.
1.9. Quan hệ xã hội
Nghiên cứu quan hệ xã hội là việc chúng ta tìm hiểu sự gắn bó ảnh hưởng qua lại giữa người phạm tội và những người xung quanh. Cụ thể là mối quan hệ: bạn bè, quan hệ các nhóm, tổ chức đoàn thể…Những thông tin phản ánh về mối quan hệ xã hội của người phạm tội giúp chúng ta phần nào lý giải được thái độ, hành vi xử sự của họ trước những tình huống xảy ra trong thực tiễn cuộc sống, từ đó có tác động tích cực nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội. Đối với người phạm tội, cần chú ý đến quan hệ xã hội bất thường, đây là căn cứ định hướng điều tra cũng như phòng ngừa tội phạm.
Ngoài những đặc điểm, dấu hiệu kể trên, những dấu hiệu khác thuộc nhóm đặc điểm, dấu hiệu nhân khẩu học như: dân tộc; tôn giáo… cũng có ý nghĩa rất lớn trong nghiên cứu nhân thân người phạm tội. Việc chia nhỏ những dấu hiệu xã hội liên quan đến người phạm tội giúp cho chúng ta hiểu sâu về người phạm tội, từ đó có các biện pháp đấu tranh thích hợp.
Xem thêm bài viết về “Nhân thân người phạm tội”:
- Ý nghĩa việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội
- Phân biệt nhân thân người phạm tội và chủ thể của tội phạm
2. Nhóm đặc điểm xã hội – tâm lý
Khi nghiên cứu về nhân thân người phạm tội, bên cạnh đặc điểm xã hội nhân khẩu – dấu hiệu bên ngoài, nó chưa thực sự lý giải được vì sao người ta phạm tội. Để trả lời được câu hỏi này, chúng ta phải đi sâu nghiên cứu mặt bên trong của tội phạm được thể hiện ở khía cạnh xã hội – tâm lý. Đây là dấu hiệu nổi bật trong nhân cách con người, có thể nói đây là một đặc điểm quan trọng khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội trong tội phạm học.
2.1. Đặc điểm phẩm chất đạo đức người phạm tội
Đạo đức là một trong những yếu tố cấu thành nhân cách con người. Nó không phải là thứ có sẵn ngay từ khi con người mới sinh ra, mà được hình thành dần dần trong quá trình xã hội hóa dưới sự tác động của gia đình, nhà trường và xã hội. Phẩm chất đạo đức con người thể hiện ở hệ thống quan niệm, thái độ, nhận thức của người đó đối với các giá trị đạo đức xã hội, như đối với đất nước, trong lao động, giữ gìn trật tự xã hội, trong tập thể và trong cả gia đình. Khi cá nhân định hướng đối với giá trị nào đó cho là chủ yếu, thì chúng ta có thể đánh giá được khuynh hướng phát triển của nhân cách.
Phẩm chất đạo đức con người thường được bộc lộ ra bên ngoài thông qua các hành vi, các cách xử sự cụ thể của người đó trong điều kiện hoàn cảnh thực tế. Nghiên cứu về người phạm tội cho thấy đa số họ có nhận thức không đúng hoặc không đầy đủ về các giá trị đạo đức xã hội, vì vậy thường có thái độ tiêu cực đối với các giá trị đó, họ thường đề cao lợi ích cá nhân hơn lợi ích tập thể.
Con người có thể trở thành người phạm tội do có những tác động xã hội bất lợi. Những tác động xã hội bất lợi đó được tiếp nhận và ảnh hướng đến quá trình hình thành thể giới quan, hệ thống quan niệm và thái độ… sau đó họ thể hiện thông qua hành vi phạm tội. Đương nhiên không nên đồng nhất các phẩm chất đạo đức của nhân thân với các hiện tượng xã hội (mà có thể được xem là nguyên nhân phạm tội). Nhưng mối liên hệ qua lại giữa chúng là tất yếu vì thực chất phẩm chất đạo đức được hình thành của nhân thân người phạm tội là khâu trung gian giữa các nguyên nhân xã hội nêu trên với bản thân hành vi phạm tội.
2.2. Đặc điểm tâm lý cá nhân
Ở người phạm tội đặc điểm tâm lý cá nhân thể hiện ở nhu cầu, thói quen, hứng thú, niềm đam mê, xúc cảm, tình cảm… Những đặc điểm này cũng tồn tại như những người bình thường khác, tuy nhiên ở người phạm tội, phần lớn là hệ thống nhu cầu, hướng thú thấp kém, là những thói quen tật xấu. Tuy nhiên, nguồn gốc của hành vi phạm tội không phải ở bản thân nhu cầu mà là ở ý thức sai về nhu cầu và con đường thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu của người phạm tội thường nghiêng về vật chất, vụ lợi và đặc biệt là phương thức để thỏa mãn những nhu cầu, hứng thú đó thường là trái pháp luật, kể cả pháp luật hình sự.
Thế giới quan của người phạm tội đa số cũng lệch lạc, u tối, đặc biệt là sự xuyên tạc đối với chuẩn mực xã hội. Niềm tin ở người phạm tội phát triển lệch lạc khác với ở con người bình thường trong xã hội. Niềm tin đã mất hết ý nghĩa đúng đắn và thiêng liêng giữa con người với nhau, niềm tin đã phát triển lệch lạc sang hướng khác, ở họ không còn niềm tin ở xã hội, ở mối quan hệ giữa con người với con người.
Tính cách là yếu tố trong đặc điểm tâm lý cá nhân người phạm tội, tính cách là hệ thống thái độ biểu hiện qua hệ thống hành vi quen thuộc, thái độ của người phạm tội thường lệch lạc, đi ngược với chuẩn mực xã hội. Tính cách của người phạm tội là kết quả của quá trình thực hiện các hoạt động tội phạm, ở người phạm tội, sự “bình tĩnh” mang tính chất thủ đoạn nhằm né tránh tội khi khai báo.
Thành tố quan trọng trong đặc điềm cá nhân người phạm tội đó là khí chất. Khí chất vốn được xem là yếu tố liên quan chặt chẽ với loại hình thần kinh của con người. Tính ổn định tương đối của khí chất làm cho nó ít chịu tác động trước hoàn cảnh bên ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phạm tội với những tình huống căng thẳng cản trở việc thực hiện mục đích, nhiều cá nhân phải điều tiết liên tục hệ thần kinh, khí chất vốn có của mình cho phù hợp với hiện thực. Vì vậy, có những trường hợp người phạm tội lại có những hành vi khác xa với hành vi, bản tính hàng ngày mà bậc cha mẹ, người thân không thể tin rằng con họ lại phạm tội.
Đối với mỗi loại người phạm tội khác nhau thì đặc điểm tâm lý trong họ cũng khác nhau. Người phạm tội lần đầu có trạng thái tâm lý khác với người tái phạm tội, tái phạm nguy hiểm; người phạm tội xâm phạm sở hữu có nhu cầu, hứng thú khác với người phạm tội về ma túy; người phạm tội thuộc các lứa tuổi, địa vị xã hội khác nhau cũng có những đặc điểm tâm lý khác nhau.
2.3. Đặc điểm tâm lý người phạm tội
Đặc điểm tâm lý người phạm tội là yếu tố lý giải vì sao trong hoàn cảnh nhất định một con người lại thực hiện hành vi phạm tội. Tâm lý người phạm tội là tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc của người phạm tội, bao gồm hiện tượng tâm lý tích cực và tiêu cực (trong đó có tâm lý tội phạm) điều hành hành vi, hoạt động của họ. Đặc điểm tâm lý người phạm tội là yếu tố lý giải vì sao trong hoàn cảnh nhất định một con người lại thực hiện hành vi phạm tội. Tâm lý người phạm tội là tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc của người phạm tội, bao gồm hiện tượng tâm lý tích cực và tiêu cực (trong đó có tâm lý tội phạm) điều hành hành vi, hoạt động của họ.
Tâm lý người phạm tội không phải tự có sẵn, không di truyền, mà là kết quả của quá trình hình thành và phát triển dưới tác động của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài của cá nhân con người. Quá trình phát triển tâm lý người phạm tội vừa tuân theo các quy luật chung, vừa tuân theo quy luật của sự hình thành và phát triển tâm lý tội phạm nói riêng. Tâm lý tội phạm cũng chịu sự chi phối của các yếu tố thể chất, môi trường sống và hoạt động của cá nhân, như quá trình xã hội hóa và thích ứng xã hội của họ có khiếm khuyết và sai lệch chuẩn mực xã hội trong đó có chuẩn mực pháp luật hình sự. Những đặc điểm tâm lý của người phạm tội được nghiên cứu ở các góc độ: đặc điểm tâm lý cá nhân, đặc điểm tâm lý xã hội; đặc điểm tâm lý pháp luật của người phạm tội.
2.4. Tâm lý pháp luật
Đây là vấn đề quan trọng cần được nghiên cứu sâu đối với người phạm tội. Đặc điểm tâm lý pháp luật trong nhân thân người phạm tội thể hiện dưới dạng nhận thức pháp luật: thái độ; cảm xúc; hành vi… đối với pháp luật của người phạm tội. Nhìn chung, người phạm tội có hiểu biết rất thấp về pháp luật, trong khi đó lại có thái độ không tôn trọng pháp luật và cơ quan bảo vệ pháp luật. Người phạm tội có niềm tin rằng sẽ trốn tránh được sự trừng phạt của pháp luật, họ luôn hy vọng cơ quan điều tra sẽ không phát hiện và làm rõ được hành vi phạm tội của mình.
Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi không những là căn cứ để xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là tội phạm hay không mà còn dùng làm căn cứ phân loại tội phạm. Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội càng cao thì trách nhiệm hình sự của người thực hiện tội phạm càng nặng nề. Dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Nghiên cứu động cơ, mục đích thực hiện tội phạm của người phạm tội góp phần làm rõ nguyên nhân thực hiện tội phạm của họ, đồng thời cũng giúp cho việc đánh giá chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đó. Một hành vi có ý thức thể hiện ở sự điểu khiển có chủ định của ý chí, ở sự hiểu biết bản chất mối quan hệ nhân quả giữa chúng. Chủ thể phải thấy trước kết quả của hành động mà mình sẽ thực hiện. Mục đích đó do chủ thể đặt ra và nhận thức như là yếu tố cần thiết và có khả năng thực hiện trong điều kiện nhất định. Sau khi nhận thức, đặt ra mục đích, chủ thể phân tích điều kiện, hoàn cảnh thực tế, nghĩa là đưa ra phương án thích hợp để đạt được mục đích. Trên cơ sở những phương án đó cá nhân cân nhắc, lựa chọn tìm phương án tối ưu nhất theo chủ quan của mình.
Việc lựa chọn mục đích do động cơ quyết định. Động cơ là động lực thúc đẩy hành vi của cá nhân. Khi nhu cầu được nhận thức và khả năng thực hiện thì nó trở thành động cơ. Động cơ và mục đích có liên quan chặt chẽ, nhờ động cơ thúc đẩy, nên người phạm tội mới hành động quyết liệt để đạt mục đích. Tất cả trường hợp phạm tội cố ý đều do động cơ nhất định thúc đẩy. Chỉ trong trường hợp cá nhân vô ý cẩu thả chưa kịp suy nghĩ, thì hành vi của họ không có động cơ phạm tội rõ ràng.
Động cơ gắn liền với nhân cách người phạm tội, vì vậy, việc phát hiện ra động cơ phạm tội và nghiên cứu chúng sẽ có ý nghĩa lớn trong việc xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, xác định mức độ nguy hiểm của cá nhân người phạm tội, dự báo khả năng tái phạm tội của cá nhân.
Sự xuất hiện động cơ và mục đích phạm tội chưa dẫn đến hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội có diễn ra hay không còn phụ thuộc vào hoàn cảnh, tình huống phạm tội. Tình huống đó không có ý nghĩa quyết định độc lập mà chỉ củng cố động cơ và mục đích đã được hình thành trước đó và làm xuất hiện ý định phạm tội. Có thể nói vào thời điểm này mục đích phạm tội nổi lên trên hết, mọi “ý nghĩa” của cá nhân đều tập trung hướng đến “kết quả” phạm tội. Nghiên cứu thực tiễn cho thấy, có thể xem xét động cơ mục đích của người phạm tội trong tổng thể những người phạm tội nói chung hoặc giữa các nhóm người phạm tội nói riêng thông qua một dấu hiệu nào đó phản ánh mức độ nguy hiểm xã hội và ngược lại cũng có thể xem xét đánh giá các nhóm người phạm tội trên cơ sở phân biệt tính chất hay động cơ của việc phạm tội.
Như vậy, chúng ta nhận thấy mỗi một người phạm tội đều có những đặc điểm, dấu hiệu riêng biệt. Tội phạm là kết quả của sự tác động qua lại phức tạp của nhiều yếu tố, trong đó các đặc điểm nhân thân đóng vai trò quan trọng. Các đặc điểm nhân thân người phạm tội là kết quả của những điều kiện sống nhất định, của sự giáo dục, những mối quan hệ và sự ảnh hưởng qua lại giữa mối trường xã hội và người phạm tội.
Xem thêm bài viết:
- Tổng hợp đề thi môn Tội phạm học
- Tổng hợp nhận định môn Tội phạm học
3. Các đặc điểm xã hội – pháp lý
Nghiên cứu và phân tích các đặc điểm xã hội – pháp lý của nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Đây chính là căn cứ, cơ sở để xác định tội danh, quyết định hình phạt cho hợp lý. Bênh cạnh đó, nghiên cứu các đặc điểm pháp lý hình sự của người phạm tội cho phép chúng ta chỉ ra nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm và từ những đặc điểm này để xây dựng hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Đặc điểm xã hội – pháp lý là dấu hiệu để phân biệt giữa người phạm tội và người không phạm tội.
Đặc điểm xã hội – pháp lý của nhân thân người phạm tội bao gồm:
- Phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm;
- Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội;
- Phạm tội một mình hay có đồng phạm.
Hai nhóm tội phạm mà túy và xâm phạm sở hữu trên thực tế cho thấy là những đối tượng không có nghề nghiệp ổn định và khi mãn hạn tù thì tái phạm tội cao hơn các nhóm tội phạm khác. Đối với đối tượng phạm tội ma túy, trong quá trình chấp hành phạt tù có sự gặp gỡ và lao động cải tạo cùng nhóm tội phạm khác, mở rộng sự quen biết với các bị cáo khác, trao đổi kinh nghiệm và chiêu mộ thêm nhiều người vào đường dây của mình để sau khi ra tù móc nối làm ăn với nhau. Phân tích đặc điểm này ở nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng đối với phòng ngừa tội phạm, cho phép xác định tỷ lệ tái phạm tội, bên cạnh đó giúp cho cơ quan quản lý trại giam nắm được cơ chế hình thành các nhóm phạm nhân có xu hướng phạm tội trong quá trình cải tạo nhằm nâng cao hơn chất lượng giáo dục cải tạo phạm nhân. Nghiên cứu tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nhằm xác định tính chất, mức độ tiêu cực của nhân thân người phạm tội thông qua cơ chế hành vi phạm tội để từ đó phân loại nhân thân người phạm tội và dựa trên cơ sở đó có những biện pháp phòng ngừa, giáo dục cải tạp hiệu quả hơn.
Để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội căn cứ vào quyết định hình phạt như tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiệm trọng hoặc thông qua các hình thức gián tiếp để xác định hành vi phạm tội và chuyển biến tâm lý của người phạm tội: hậu quả; thiệt hại; thủ đoạn; tính chất mức độ lỗi; động cơ, mục đích thực hiện hành vi…..
Đối với đặc điểm tội phạm một mình hay có đồng phạm trong việc thực hiện hành vi phạm tội cũng là căn cứ xác định mức độ nguy hiểm của nhân thân người phạm tội. Phạm tội một mình là trường hợp phạm tội được thực hiện bởi một người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt tới độ tuổi quy định của Bộ luật Hình sự. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cùng thực hiện một hành vi phạm tội. Tội phạm trong những vụ án có đồng phạm bao giờ cũng thể hiện tính chất, mức độ nguy hiểm, phạm tội có hệ thống, phạm tội nhằm tăng khả năng đạt đến mục đích đạt được.
Trên đây là bài viết: Các đặc điểm nhân thân người phạm tội. Nếu bạn có thắc mắc cần giải đáp, vui lòng để lại bình luận. Chúng ta cùng thảo luận! Thân ái!
Trả lời