Mục lục
Các căn cứ phân loại tội phạm theo Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
Tác giả: Nguyễn Ngọc Hòa
Tội phạm tuy có chung các dấu hiệu như trình bày trên nhưng những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Tội phạm bao gồm từ những hành vi có tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an ninh quốc gia như hành vi phản bội Tổ quốc (Điều 108 Bộ luật Hình sự) đến những hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội không lớn như hành vi chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176 Bộ luật Hình sự). Những hành vi phạm tội cụ thể không những có sự khác nhau về nguyên nhân, về tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại mà còn có sự khác nhau ngay ở tính chất và mức độ nguy hiểm của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cũng như ở nhiều tình tiết khách quan và chủ quan khác.
Tội phạm có chung dấu hiệu là tính nguy hiểm cho xã hội nhưng mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội không phải như nhau mà có sự khác nhau giữa các tội phạm cũng như giữa các trường hợp phạm tội của tội cụ thể. Chính do sự khác nhau như vậy mà vấn đề phân hoá và cá thể hoá hình phạt nói riêng cũng như trách nhiệm hình sự nói chung đã được đặt ra và được coi là nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam. Trong đó, phân hoá trách nhiệm hình sự là sự phân hoá trong luật còn cá thể hoá trách nhiệm hình sự là sự phân hoá trong áp dụng. Trước hết đòi hỏi phải có sự phân hoá trách nhiệm hình sự trong luật và sự phân hoá này là cơ sở để có thể cá thể hoá trách nhiệm hình sự trong áp dụng.
Xem thêm bài viết về “Phân loại“
- 03 Tiêu chí Phân loại Hiến pháp – GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
- Nhu cầu và phân loại hiến pháp theo quan điểm thực chất – TS. Nguyễn Quang Đức
- Phân loại quan hệ có yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế – ThS. Nguyễn Thị Hồng Trinh
1. Phân loại tội phạm theo Bộ luật Hình sự năm 2015
Thể hiện nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự, Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 phân tội phạm thành bốn nhóm tội phạm khác nhau: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. (Trước khi có Bộ luật Hình sự năm 1999, trong luật hình sự Việt Nam, tội phạm mới chỉ được phân thành hai loại: Tội phạm nghiêm trọng và tội phạm ít nghiêm trọng. Việc phân thành bốn loại tội phạm là bước phân hoá hơn nữa trách nhiệm hình sự trong luật)
Theo khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự, các nhóm tội phạm được định nghĩa như sau:
1.1. Tội phạm ít nghiêm trọng
“Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm”.
Ví dụ: Nguyễn Văn A bị Tòa án nhân dân Quận X tuyên phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự (có khung hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm). Ta có thể thấy, mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 là 03 năm tù nên tội phạm thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.
1.2. Tội phạm nghiêm trọng
“Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù”.
Ví dụ: Nguyễn Văn B bị Tòa án nhân dân Quận Y tuyên phạt 04 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự (có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm). Ta thấy, mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự là 05 năm, nằm trong khoảng từ 03 đến 07 năm tù nên thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng.
1.3. Tội phạm rất nghiêm trọng
“Tội phạm rất nghiêm trọng là tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đổi với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù”.
Ví dụ: Nguyễn Văn C bị Tòa án nhân dân Quận Z tuyên phạt 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự (có khung hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm). Ta thấy, mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là 15 năm, nằm trong khoảng từ 07 đến 15 năm tù nên thuộc trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng.
1.4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
“Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Ví dụ: Nguyễn Văn D bị Tòa án nhân dân Quận X tuyên tử hình về tội “Giết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự (có khung hình phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình). Ta thấy, mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là tử hình nên thuộc trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng.
Xem thêm bài viết về “Tội phạm“
- Tội phạm là gì? Các đặc điểm (dấu hiệu) của tội phạm và ý nghĩa của việc xác định khái niệm của tội phạm – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Hoàn thiện chế định lớn về tội phạm của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành – GS.TS. Lê Văn Cảm
- Về phạm tội chưa đạt và một số hình thức phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm – TS. Trịnh Tiến Việt
- Nạn nhân của tội phạm – TS. Nguyễn Khắc Hải
- Phòng ngừa tội phạm dùng nhục hình ở Việt Nam góp phần thực hiện nghĩa vụ quốc gia khi gia nhập Công ước chống tra tấn 1984 của Liên hợp quốc – TS. Lê Nguyên Thanh
2. Cơ sở khoa học của việc phân loại tội phạm
Sự phân hoá thành bốn nhóm tội phạm như vậy vừa là biểu hiện cơ bản của sự phân hoá trách nhiệm hình sự vừa là cơ sở thống nhất cho sự phân hoá trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự. Sự phân hoá này là cơ sở thống nhất cho việc xây dựng các khung hình phạt cho các tội phạm cụ thể cũng như cho việc xây dựng trong luật hình sự và trong các ngành luật khác có liên quan các quy định thể hiện sự phân hoá trong chống các loại tội phạm khác nhau. Đó là những căn cứ pháp lý thống nhất để các chủ thể áp dụng pháp luật thực hiện được nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự khi áp dụng luật hình sự.
Theo định nghĩa này, các nhóm tội phạm được phân biệt với nhau bởi dấu hiệu về nội dung và dấu hiệu về hậu quả pháp lí. Nếu như tội phạm nói chung có dấu hiệu về nội dung là tính nguy hiểm cho xã hội và dấu hiệu về hậu quả pháp lý là tính phải chịu hình phạt thì các nhóm tội phạm cũng có những dấu hiệu đó, vì đều là tội phạm nhưng với những nội dung cụ thể khác nhau. Mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội được cụ thể hoá ở tội ít nghiêm trọng là không lớn; ở tội nghiêm trọng là lớn; ở tội rất nghiêm trọng là rất lớn và ở tội đặc biệt nghiêm trọng là đặc biệt lớn. Tương ứng và phù hợp với bốn mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội đã được phân hoá như vậy cũng có bốn mức cao nhất của khung hình phạt: Đến 3 năm tù; đến 7 năm tù; đến 15 năm tù và trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Trong hai dấu hiệu phân biệt các nhóm tội phạm này với nhau, dấu hiệu về nội dung quyết định dấu hiệu về hậu quả pháp lí. Sự xác định dấu hiệu về hậu quả pháp lý thể hiện ở mức cao nhất của khung hình phạt chỉ là kết quả đánh giá của các nhà làm luật về sự cần thiết phải áp dụng các mức hình phạt khác nhau đối với những hành vi phạm tội có tính nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Nhưng khi đã được xác định, mức cao nhất của khung hình phạt trở thành dấu hiệu có tính độc lập tương đối để phân biệt các nhóm tội phạm với nhau, không phụ thuộc vào mức hình phạt cụ thể được áp dụng.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017)”
- Cấu tạo của Bộ luật hình sự Việt Nam (Bộ luật Hình sự năm 2015) – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
- Hoàn thiện chế định lớn về tội phạm của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành – GS.TS. Lê Cảm
- Một số điểm mới của Tội Buôn lậu trong Bộ luật Hình sự 2015 và những vấn đề đặt ra khi triển khai thực hiện ở thành phố Hải Phòng – TS. Lê Nguyên Trường
- Giảm hình phạt theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 và một số vấn đề đặt ra – ThS. Trần Thị Quỳnh
- Quy định về Hình phạt tiền trong Bộ luật Hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
3. Ý nghĩa của việc phân loại tội phạm
Trong áp dụng luật hình sự, việc xác định tội phạm đã thực hiện thuộc loại tội phạm nào có ý nghĩa đối với việc áp dụng nhiều quy định của Bộ luật Hình sự. Ví dụ: Khoản 2 Điều 12; Điều 27 v.v.. Ngoài ra, việc xác định này cũng có ý nghĩa đối với việc áp dụng một số quy định của các ngành luật có liên quan đến vấn đề trách nhiệm hình sự như luật tố tụng hình sự…
Với cách hiểu, tội phạm chỉ là tội phạm do “người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện và trong trường hợp được luật quy định, pháp nhân thương mại cũng phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với người phạm tội đó thì quy định trên đây (khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự) về phân loại tội phạm là đầy đủ và rõ ràng. Tuy nhiên, quy định này có thể được cho là chưa đầy đủ, chưa rõ ràng khi quan niệm còn có tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện và việc phân loại tại khoản 1 Điều 9 mới là việc phân loại tội phạm do “người có năng lực trách nhiệm hình sự” thực hiện. Từ đó, Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung quy định về việc phân loại tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện (khoản 2 Điều 9 Bộ luật Hình sự) nhưng nội dung này không có gì khác so với nội dung tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự./.
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời