• Trang chủ
  • Hiến pháp
  • Hình sự
  • Dân sự
  • Hành chính
  • Hôn nhân gia đình
  • Lao động
  • Thương mại

Luật sư Online

Tư vấn Pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, ly hôn, thừa kế, đất đai

  • Kiến thức chung
    • Học thuyết kinh tế
    • Lịch sử NN&PL
  • Cạnh tranh
  • Quốc tế
  • Thuế
  • Ngân hàng
  • Đất đai
  • Ngành Luật khác
    • Đầu tư
    • Môi trường
 Trang chủ » Hình sự » Bàn về việc khắc phục một số hạn chế, sai sót trong BLHS năm 2015

Bàn về việc khắc phục một số hạn chế, sai sót trong BLHS năm 2015

07/05/2020 26/05/2020 ThS. LS. Phạm Quang Thanh Leave a Comment

Mục lục

  • TÓM TẮT
  • 1. Phạm vi cần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 2015
  • 2. Một số dạng hạn chế, sai sót trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và hướng khắc phục
    • 2.1. Một số dạng hạn chế, sai sót về kỹ thuật lập pháp trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và hướng khắc phục
    • 2.2. Một số dạng hạn chế, sai sót về nội dung trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và hướng khắc phục
  • CHÚ THÍCH
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bài viết: Bàn về việc khắc phục một số hạn chế, sai sót trong BLHS năm 2015

Bàn về việc khắc phục một số hạn chế, sai sót trong BLHS năm 2015

  • Hoàn thiện một số quy định của BLHS theo Công ước về chống tra tấn
  • Hoàn thiện chính sách hình phạt trong quy định của BLHS năm 2015
  • Hoàn thiện quy định của BLHS đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý các chất ma túy
  • Hoàn thiện chính sách hình phạt trong quy định của BLHS năm 2015

TỪ KHÓA: Góp ý sửa đổi Luật, Luật hình sự, Luật hình sự phần chung, Tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam

TÓM TẮT

Ngày 27/11/2015, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (BLHS năm 2015) và dự kiến Bộ luật này có hiệu lực vào ngày 01/07/2016. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai Nghị quyết số 109/2015/QH13 của Quốc hội về việc thi hành BLHS, các cơ quan hữu quan đã phát hiện ra một số sai sót kỹ thuật và một số điểm bất hợp lý trong BLHS năm 2015. Vì vậy, Quốc hội quyết định lùi thi hành để xem xét sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015. Trong bài viết, chúng tôi đưa ra một số đề xuất về phạm vi cần sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015. Ngoài ra, chúng tôi cũng phân tích một số dạng hạn chế, sai sót của BLHS năm 2015 và hướng khắc phục. Chúng tôi cho rằng nhận diện đầy đủ những hạn chế, sai sót còn tồn tại trong BLHS là rất cần thiết đối với việc rà soát triệt để các lỗi đang tồn tại trong BLHS.

Ngày 27/11/2015, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và dự kiến Bộ luật này có hiệu lực vào ngày 01/07/2016. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai Nghị quyết số 109/2015/QH13 của Quốc hội về việc thi hành BLHS, các cơ quan hữu quan đã phát hiện ra một số sai sót kỹ thuật và một số điểm bất hợp lý trong BLHS năm 2015. Vì vậy, ngày 29/6/2016, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13 về việc lùi hiệu lực thi hành BLHS năm 2015, đồng thời bổ sung dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 vào Chương trình Xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016. Ngày 12/7/2016, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 1469/NQ-UBTVQH13 về việc thành lập Ban soạn thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 do Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Trưởng ban (sau đây gọi tắt là “Ban soạn thảo”). Tháng 8/2016, Ban soạn thảo đã trình Chính phủ Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 (sau đây gọi tắt là “Dự thảo”) và lấy ý kiến của các cơ quan, ban ngành về Dự thảo này.

Trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015, vấn đề quan trọng đầu tiên cần phải thảo luận là phạm vi sửa đổi, bổ sung. Việc sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015 chỉ nên giới hạn đối với những sai sót mà nếu không chỉnh sửa thì BLHS không thể thi hành được hay cần sửa đổi, bổ sung toàn diện cả những sai sót về chính sách hình sự, về tính phù hợp, toàn diện và khả thi nội dung các quy định của BLHS? Trong bài viết, chúng tôi đưa ra một số đề xuất về phạm vi cần sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015. Ngoài ra, chúng tôi cũng phân tích một số dạng hạn chế, sai sót của BLHS năm 2015 và hướng khắc phục. Việc nhận diện đầy đủ những hạn chế, sai sót còn tồn tại trong BLHS là rất cần thiết đối với việc rà soát triệt để các lỗi đang tồn tại trong BLHS.

1. Phạm vi cần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 2015

BLHS có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Vì vậy, mỗi quy định của BLHS sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân…

Với vai trò và tầm quan trọng đặc biệt như trên, từng quy định của BLHS nói riêng và của các văn bản pháp luật khác trong lĩnh vực luật hình sự nói chung (Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam) cần phải phù hợp với Hiến pháp, đồng bộ với các luật, bộ luật đã hoặc sẽ được ban hành; tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, bảo đảm mọi người được sống trong một môi trường an toàn, lành mạnh… Các quy định của BLHS phải là một sản phẩm hoàn thiện, không có sai sót, không chồng chéo, mâu thuẫn với các văn bản pháp luật khác. Ngoài ra, BLHS phải có tính minh bạch, tính khả thi và tính dự báo. Khi BLHS chưa đảm bảo việc thực hiện tốt các nhiệm vụ nêu trên thì không nên nóng vội thi hành.

Theo thống kê của Ban soạn thảo, đến nay đã phát hiện ra trong BLHS năm 2015 có 45 điều luật có sai sót về kỹ thuật và 48 điều luật có sai sót về nội dung cần phải chỉnh sửa, trong đó có 12 điều thuộc Phần thứ nhất – Những quy định chung và 81 điều thuộc Phần thứ hai – Phần Các tội phạm.[1] Đối với một văn bản luật có tầm quan trọng như BLHS, mới được ban hành và chưa có hiệu lực áp dụng mà đã phát hiện ra 93/426 điều luật cần phải chỉnh lý (chiếm tỷ lệ 22%) là một sai sót vô cùng nghiêm trọng và cần phải khắc phục triệt để trước khi thi hành nhằm đảm bảo quyền lợi của các tổ chức, cá nhân liên quan.

Việc đưa vào áp dụng một BLHS khi mà bản thân cơ quan soạn thảo, ban hành và áp dụng còn chưa thực sự hài lòng về một số quy định trong BLHS sẽ đem lại những hiệu ứng tiêu cực và không bảo vệ triệt để quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân và tổ chức. Vì vậy, chúng tôi ủng hộ quan điểm không nên hạn chế phạm vi sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015.[2] Bất kỳ một điểm bất hợp lý hoặc sai sót nào trong BLHS được phát hiện thì cần phải sửa đổi. Do đó, cần rà soát toàn bộ các quy định của BLHS năm 2015 để phát hiện những sai sót và đề xuất phương án khắc phục nhằm bảo đảm áp dụng thống nhất BLHS trong thực tiễn. Tất cả các sai sót về kỹ thuật (dù Ban soạn thảo đánh giá là có ảnh hưởng hay không ảnh hưởng đến nội dung quy định); hoặc các quy định chưa cụ thể, rõ ràng, dễ dẫn đến cách hiểu đa nghĩa hoặc có thể gây chồng chéo, mâu thuẫn với các văn bản pháp luật khác đã hoặc sẽ được ban hành, đều phải sửa đổi. Đối với các vấn đề liên quan đến chính sách hình sự, nếu phát hiện thấy có điểm chưa hợp lý thì cần nghiên cứu để đề xuất sửa đổi phù hợp. Nếu việc sửa đổi, bổ sung các quy định của BLHS dẫn đến việc sửa đổi, bổ sung các luật đang lùi hiệu lực thi hành cùng BLHS năm 2015 (BLTTHS,Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự,Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam) thì cần nghiên cứu việc sửa các quy định không phù hợp của các luật liên quan. Những quy định về chính sách cụ thể trong một số điều luật mà chưa bảo đảm tính chặt chẽ, chưa thể hiện nhất quán của chính sách hoặc dự báo trước khả năng sẽ không phù hợp với thực tiễn, không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm thì cần phải sửa đổi.[3] BLHS được Quốc hội thông qua phải là một sản phẩm hoàn thiện theo đánh giá của Ban soạn thảo và các đại biểu Quốc hội tại thời điểm ban hành Bộ luật đó. Nếu Ban soạn thảo hoặc đại biểu Quốc hội còn thấy những điểm chưa hợp lý trong BLHS này thì nhất thiết không “nhấn nút” thông qua.

2. Một số dạng hạn chế, sai sót trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và hướng khắc phục

2.1. Một số dạng hạn chế, sai sót về kỹ thuật lập pháp trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và hướng khắc phục

Ngoài những lỗi kỹ thuật được Ban soạn thảo đã chỉ ra, qua nghiên cứu BLHS năm 2015, chúng tôi đề nghị sửa thêm một số dạng lỗi kỹ thuật sau đây:

Thứ nhất,nhà làm luật cần thống nhất về kỹ thuật lập pháp khi quy định cấu thành tội phạm (CTTP) cơ bản của các tội phạm có nhiều hành vi phạm tội và nhiều dấu hiệu định tội khác (như dấu hiệu định lượng của đối tượng tác động, dấu hiệu hậu quả, dấu hiệu đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm… ). Lỗi kỹ thuật này tuy không ảnh hưởng đến việc định tội danh nhưng tạo ra sự bất nhất, không đồng bộ về hình thức quy định trong BLHS. Ví dụ:

Điều 261. Tội cản trở giao thông đường bộ

“1. Người nào đào, khoan, xẻ, san lấp trái phép các công trình giao thông đường bộ; đặt, để trái phép vật liệu, phế thải, rác thải, đổ chất gây trơn, vật sắc nhọn hoặc các chướng ngại vật khác gây cản trở giao thông đường bộ; tháo dỡ, di chuyển trái phép, làm sai lệch, che khuất hoặc phá hủybiển báo hiệu, đèn tín hiệu, cọc tiêu, gương cầu, dải phân cách hoặc các thiết bị an toàn giao thông đường bộ khác; mở đường giao cắt trái phép qua đường bộ, đường có dải phân cách; sử dụng trái phép lề đường, hè phố, phần đường xe chạy; sử dụng trái phép hành lang an toàn đường bộ hoặc vi phạm quy định về bảo đảm an toàn giao thông khi thi công trên đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.”

….

Điều 278. Tội cản trở giao thông đường không

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, cản trở giao thông đường không làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thểcủamỗi người từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 62% đến 121% hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóaán tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đặt các chướng ngại vật cản trở giao thông đường không;

b) Di chuyển trái phép, làm sai lệch, che khuất, hoặc phá huỷ các biển hiệu, tín hiệu an toàn giao thông đường không;

c) Sử dụng sai hoặc làm nhiễu các tần số thông tin liên lạc;

d) Cố ý cung cấp thông tin sai đến mức gây uy hiếp an toàn của tàu bay đang bay hoặc trên mặt đất, an toàn của hành khách, tổ bay, nhân viên mặt đất hoặc người tại cảng hàng không, sân bay và công trình, trang bị, thiết bị hàng không dân dụng;

đ) Làm hư hỏng trang thiết bị của sân bay hoặc trang thiết bị phụ trợ khác phục vụ cho an toàn bay;

e) Hành vi khác cản trở giao thông đường không.”

Trong CTTP cơ bản của cả hai Điều 261 và 278 BLHS năm 2015, nhà làm luật đều quy định nhiều hành vi phạm tội và nhiều dấu hiệu hậu quả hoặc dấu hiệu nhân thân khác là dấu hiệu định tội. Tuy nhiên, trong khoản 1 Điều 261 BLHS năm 2015, nhà làm luật liệt kê hành vi phạm tội trước (có 6 nhóm hành vi) và liệt kê các hậu quả của tội phạm sau (từ điểm a đến điểm d). Ngược lại, trong khoản 1 Điều 278 BLHS, nhà làm luật liệt kê các dấu hiệu hậu quả và dấu hiệu nhân thân trước, sau đó liệt kê các hành vi phạm tội sau (từ điểm a đến điểm e).[4]

BLHS cần thống nhất hình thức quy định CTTP cơ bản của những tội danh có nhiều hành vi phạm tội và nhiều dấu hiệu khác là dấu hiệu định tội. Chúng tôi ủng hộ phương án quy định CTTP cơ bản của các tội danh có nhiều hành vi phạm tội và nhiều dấu hiệu định tội khác theo Mô hình Điều 261 BLHS năm 2015 bởi các lý do sau đây: Thứ nhất, trong BLHS Việt Nam, các dấu hiệu về định lượng của đối tượng tác động hoặc hậu quả của tội phạm thường được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt trong các CTTP tăng nặng hoặc CTTP giảm nhẹ của cùng tội danh đó và được liệt kê trong các điểm a, b, c, d… của các khoản này. Vì vậy, nếu CTTP cơ bản quy định theo Mô hình Điều 261 BLHS năm 2015 sẽ tạo ra sự thống nhất trong cùng điều luật, giúp người nghiên cứu và áp dụng pháp luật dễ theo dõi sự tiếp nối của các mức định lượng của đối tượng tác động hoặc mức độ hậu quả của tội phạm trong các khung hình phạt khác nhau của cùng một tội danh. Điều đó tạo nên sự thống nhất về mặt kỹ thuật lập pháp; đồng thời, người nghiên cứu và áp dụng pháp luật không cảm thấy bối rối khi đọc các quy định của BLHS. Thứ hai,khảo sát các quy định của BLHS năm 2015 cho thấy: trong số các CTTP cơ bản quy định từ hai hành vi phạm tội trở lên và hai dấu hiệu khác trở lên là dấu hiệu định tội, phần lớn các tội phạm được quy định theo mô hình Điều 261 BLHS năm 2015.

Tuy nhiên, đối với các tội phạm quy định nhiều hành vi phạm tội (khoảng từ 4 hành vi phạm tội trở lên như Điều 116 BLHS năm 2015 – Tội phá hoại chính sách đoàn kết) mà không có dấu hiệu khác là dấu hiệu định tội thì trong CTTP cơ bản có thể liệt kê dấu hiệu hành vi ở trong các điểm a, b, c, d… để người đọc dễ nhận diện các hành vi phạm tội.

Thứ hai, trong một số điều luật của BLHS năm 2015, nhà làm luật có dẫn chiếu đến các điều luật khác của Bộ luật này, tuy nhiên cách thức dẫn chiếu không thống nhất. Ở một số điều luật, khi dẫn chiếu, nhà làm luật chỉ nêu số điều luật được dẫn chiếu mà không nêu tên điều luật. Ví dụ, khoản 1 Điều 191 BLHS năm 2015: “Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này,…”. Ở một số điều luật khác, khi dẫn chiếu, nhà làm luật chỉ nêu tên điều luật được dẫn chiếu mà không nêu số điều luật. Ví dụ, khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015: … “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổichỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản”.Ngoài ra, có khi dẫn chiếu, nhà làm luật vừa nêu cả số điều luật và tên điều luật được dẫn chiếu, ví dụ như điểm b khoản 1 Điều 389 BLHS năm 2015: “…Điều 123 (Tội giết người); Điều 141, các khoản 2, 3 và 4 (Tội hiếp dâm); Điều 142 (Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (Tội cưỡng dâm từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 146, các khoản 2 và 3 (tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi); Điều 150, các khoản 2 và 3 (Tội mua bán người)”.

BLHS cần thống nhất trong cách thức dẫn chiếu đến một điều luật khác trong BLHS. Trong ba cách dẫn chiếu điều luật khác nhau đã chỉ ra ở trên, cách nhà làm luật nêu đầy đủ cả số điều luật và tên điều luật khi dẫn chiếu đến quy định của một điều luật khác trong BLHS giúp người nghiên cứu và áp dụng pháp luật thuận lợi hơn trong việc xác định vị trí và nội dung của điều luật trong BLHS (không phải truy tìm lại xem tội phạm đó quy định trong điều luật nào; hoặc điều luật đó quy định tội phạm nào).

Vì vậy, Ban soạn thảo và nhà làm luật cần rà soát lại một cách cẩn trọng và kỹ càng các quy định của BLHS năm 2015 để các sai sót, hạn chế về kỹ thuật, dù nhỏ nhất, cũng phải được khắc phục kịp thời.

2.2. Một số dạng hạn chế, sai sót về nội dung trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và hướng khắc phục

Bên cạnh những hạn chế về kỹ thuật, BLHS năm 2015 còn một số sai sót, hạn chế về nội dung. Chúng tôi sẽ không đi sâu vào từng sai sót cụ thể trong các điều luật mà tập trung vào những dạng (loại) hạn chế, sai sót. Dựa theo cấu trúc của BLHS, chúng tôi phân tích các dạng hạn chế, sai sót ở hai nhóm quy định gồm: hạn chế, sai sót trong quy định của Phần thứ nhất – Những quy định chung và hạn chế, sai sót trong quy định của Phần thứ hai – Các tội phạm của BLHS năm 2015.

2.2.1. Hạn chế, sai sót trong Phần thứ nhất – Những quy định chung của Bộ luật Hình sự năm 2015

Các hạn chế, sai sót trong Phần thứ nhất của BLHS năm 2015 thể hiện ở các dạng sau: (i) triển khai không nhất quán chính sách hình sự; (ii) không chặt chẽ, mâu thuẫn về nội dung.

(i) Thứ nhất, triển khai không nhất quán chính sách hình sự

Một số quy định của BLHS năm 2015 bộc lộ sai sót khi thể hiện không nhất quán chính sách hình sự. Có thể lấy một vài ví dụ như: quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 BLHS năm 2015 thể hiện không nhất quán chính sách hình sự đối với việc xử lý người chưa thành niên phạm tội, Điều 14 BLHS năm 2015 thể hiện không nhất quán chính sách hình sự trong việc thu hẹp phạm vi xử lý đối với hành vi chuẩn bị phạm tội.

Mặc dù tính nguy hiểm của tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ngày càng có xu hướng tăng, độ tuổi của người thực hiện tội phạm ngày càng trẻ hóa; BLHS năm 2015 thể hiện kiên định chính sách hình sự của Nhà nước là khoan hồng đối với người chưa thành niên phạm tội (thu hẹp phạm vi xử lý hình sự), áp dụng các biện pháp xử lý vì lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên. Về cơ bản, các quy định của BLHS năm 2015 về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi đã phản ánh đúng chính sách hình sự. Tuy nhiên, quy định về phạm vi trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi tại Điều 12 BLHS năm 2015 đã “chệch” ra khỏi chính sách này, mở rộng phạm vi trách nhiệm hình sự của người phạm tội chưa thành niên (theo hướng nghiêm khắc hơn). Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 1999, người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong khi đó, Điều 12 BLHS năm 2015 quy định người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; Tội hiếp dâm; Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà không phân biệt về loại tội mà họ thực hiện, có nghĩa là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự cả về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng.

Với nguyên tắc nhân đạo, BLHS năm 2015 thể hiện quan điểm thu hẹp phạm vi xử lý hình sự đối với các hành vi chuẩn bị phạm tội. Cụ thể, theo quy định của BLHS năm 1999, người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng (không phân biệt tội danh), phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện và trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội được xác định theo công thức chung: không quá 20 năm trong trường hợp điều luật có quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình hoặc không quá một phần hai mức hình phạt tù quy định trong trường hợp điều luật quy định hình phạt tù có thời hạn.[5] BLHS năm 2015 thể hiện rõ quan điểm thu hẹp phạm vi xử lý hình sự đối với người chuẩn bị phạm tội ở chỗ: (i) giới hạn các tội danh mà người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự: (ii) giảm nhẹ hình phạt đối với người chuẩn bị thực hiện tội phạm bằng cách xác lập khung hình phạt riêng trong từng tội danh. Tuy nhiên, đáng tiếc là cũng “chệch” ra khỏi đường lối chung này, khoản 2 Điều 14 BLHS năm 2015 đã mở rộng trách nhiệm hình sự đối với người chuẩn bị phạm một tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng ở một số tội danh như: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; Tội rửa tiền. Điều này dẫn đến thiếu thống nhất trong việc triển khai chính sách hình sự trong hoạt động lập pháp và tạo ra những mâu thuẫn nhất định trong việc xử lý hình sự đối với người phạm tội. Cụ thể, người thực tế đã cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11%và không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1Điều 134 BLHS năm 2015 thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, người chuẩn bị thực hiện hành vicố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới 11% đã phải chịu trách nhiệm hình sự.

Hoặc về vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội, theo Tờ trình của Ban soạn thảo về xác định phạm vi loại tội phạm mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự thì có những điểm sau cần lưu ý: (1) lần đầu tiên BLHS Việt Nam quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân nên trước hết quy định ở một số tội phạm mà pháp nhân có những hành vi nguy hiểm và cần đấu tranh hiệu quả hơn; (2) việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật chuẩn bị cho quá trình hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế.[6] Tuy nhiên, một số tội phạm đáp ứng các tiêu chí mà Ban soạn thảo nêu và cần ràng buộc trách nhiệm đối với pháp nhân liên quan nhưng chưa được quy định trong BLHS năm 2015, ví dụ như: Tội rửa tiền (Điều 324 BLHS năm 2015); Tội vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Điều 206 BLHS năm 2015).

Đối với dạng sai sót, hạn chế về thiếu nhất quántrong việc thể hiện chính sách hình sự, Ban soạn thảo cần rà soát kỹ lưỡng, khắc phục triệt để. Trong tờ trình vào tháng 04/2016, chúng tôi nhận thấy Ban soạn thảo chưa rà soát hết các sai sót này, và cần đặc biệt chú ý đối với những quy phạm mang tính chất liệt kê.

(ii) Thứ hai, thiếu logic trong nội dung quy định

Rà soát các quy định chung của BLHS năm 2015, chúng tôi thấy một số quy định còn thiếu logic về nội dung. Có thể lấy ví dụ về sự mâu thuẫn, thiếu thống nhất giữa Điều 8 định nghĩa tội phạm với Điều 75 về điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Theo ngôn ngữ tại Điều 8 BLHS năm 2015 thì pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm một cách cố ý hoặc vô ý. Cụ thể: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm…”. Tuy nhiên, các định nghĩa về lỗi cố ý và vô ý tại Điều 10 và Điều 11 BLHS 2015 chỉ áp dụng đối với “người phạm tội” vì đây là các đặc trưng tâm lý ở con người chứ không phải tổ chức. Mặt khác, chiếu theo Điều 75 BLHS năm 2015, trong các điều kiện để ràng buộc trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại, chúng tôi không thấy điều kiện ràng buộc pháp nhân thực hiện tội phạm với lỗi cố ý hoặc vô ý mà xét về lỗi, pháp nhân sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự khi hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại.

Về hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội, chúng tôi cũng xin viện dẫn một quy định có sự thiếu logic nghiêm trọng. Khoản 1Điều 78 BLHS năm 2015 quy định về hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với pháp nhân thương mại phạm tội với nguyên văn ngôn ngữ như sau:“Đình chỉ hoạt động có thời hạn là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế.”[7] Chúng tôi nhận thấy một sự phi khả thi và mâu thuẫn nghiêm trọng trong quy định này. Rõ ràng là thiệt hại đến tính mạng thì không thể khắc phục được, một người đã chết thì không thể sống lại được. Do vậy cần phải chỉnh sửa lại quy định này theo hướng bỏ thiệt hại về tính mạng hoặc sửa lại vấn đề khắc phục hậu quả.

Với những viện dẫn về một số điều luật nêu trên, chúng tôi thiết nghĩ Ban soạn thảo cần rà soát thấu đáo, cẩn thận tất cả những quy định liên quan, cân nhắc các cách hiểu khác nhau để tránh sự mâu thuẫn và thiếu logic.

2.2.2. Hạn chế, sai sót trong Phần thứ hai – Các tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 2015

Với các sai sót, hạn chế trong Phần Các tội phạm; chúng tôi nhận thấy có những dạng sau: (i) không tương thích giữa tội danh và hành vi khách quan của tội phạm; (ii) thiếu khái quát trong mô tả hành vi khách quan hoặc đối tượng tác động của tội phạm; (iii) thiếu chuẩn xác trong mô tả hành vi khách quan của tội phạm.

(i) Thứ nhất, không tương thích giữa tội danh và hành vi khách quan của tội phạm

Quy định của BLHS năm 2015 về một số tội phạm cụ thể còn thiếu sự tương thích giữa tội danh với hành vi khách quan của tội phạm. Ví dụ: khoản 1 Điều 336BLHS năm 2015 quy định về Tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật như sau: “Người nào có nhiệm vụ, quyền hạn mà thực hiện việc đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”.Xét về hành vi khách quan của tội phạm, tội nàycần sửa lại thành Tội đăng ký, cấp giấy tờ hộ tịch trái pháp luật. Hoặc ví dụ như: khoản 1 Điều 337 BLHS năm 2015 quy định Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước như sau: “Người nào cố ý làm lộ hoặc mua bán bí mật nhà nước, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 110 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.” Xét về tội danh, Điều 337 BLHS năm 2015 quy định 4 tội danh gồm: tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước, tội chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước, tội mua bán tài liệu bí mật nhà nướcvàtộitiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước. Thế nhưng, khoản 1 Điều 337 BLHS năm 2015 chỉnêu2 dạng hành vi khách quan của tội phạm, tương ứng với tội cố ý làm lộ bí mật nhà nướcvàtội mua bán tài liệu bí mật nhà nước, thiếu hai tội danh còn lại. Hơn nữa sai sót còn thể hiện ở việc xác định đối tượng tác động của tội phạm. Xét theo tội danh thì đối tượng tác động của tội mua bán tài liệu bí mật nhà nước là “tài liệu bí mật nhà nước”, trong khi đó trong dấu hiệu cấu thành tội phạm mô tả trong nội dung điều luật thì đối tượng tác động của tội này lại là “bí mật Nhà nước”. Hoặc ví dụ: Điều 213 BLHS năm 2013 quy định về Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm, trong đó điểm a khoản 1 của điều luật nêu hành vi “Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm trừ trường hợp luật quy định khác”. Với dạng hành vi này chủ thể thực hiện hành vi là người thụ hưởng bảo hiểm vậy họ có được coi là “kinh doanh bảo hiểm” không trong khi tên tội lại là “Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm”.

Đối với những sai sót này, theo chúng tôi, Ban soạn thảo cần phải rà soát để đảm bảo sự chính xác và phù hợp tội danh với hành vi khách quan của tội phạm.

(ii) Thứ hai, thiếu khái quát trong mô tả hành vi khách quan hoặc đối tượng tác động của tội phạm

Quan sát và so sánh quy định của BLHS năm 2015 với BLHS năm 1999 trong phần các tội phạm, đặc biệt là các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; chúng tôi nhận thấy đã có sự thay đổi đáng kể về kỹ thuật lập pháp. Nhà làm luật có xu hướng mô tả chi tiết hành vi khách quan của tội phạm và/hoặc mô tả chi tiết đối tượng tác động của tội phạm. Chúng tôi thiết nghĩ quy định mô tả có nhiều ưu điểm. Thứ nhất, quy định mô tả tạo ra sự thống nhất cao hơn trong thực tiễn áp dụng pháp luật bởi lẽ nhà làm luật đã chỉ ra những đặc trưng của tội phạm ở hành vi khách quan và/ hoặc đối tượng tác động. Song song với sự tăng cường thống nhất trong áp dụng pháp luật, quy định mô tả cũng chuyển tải một lượng lớn thông tin và hữu ích trong việc tuyên truyền pháp luật, đóng góp vào việc nâng cao ý thức pháp luật. Tuy nhiên, quy định mô tả chỉ phát huy tác dụng thật sự khi sự mô tả này khái quát được các đặc trưng pháp lý của tội phạm và không nhầm lẫn với việc mô tả các dạng hành vi xảy ra trong thực tiễn. Ở một số tội phạm nhất định, nhà làm luật có xu hướng liệt kê cụ thể các dạng hành vi xảy ra trong thực tiễn hơn là khái quát các đặc trưng của hành vi.[8] Ví dụ: Điều 200 về Tội trốn thuế; Điều 206 BLHS năm 2015 về Tội vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Điều 211 BLHS năm 2015 về Tội thao túng thị trường chứng khoán; Điều 213 BLHS năm 2015 về Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm; Điều 214 BLHS năm 2015 về Tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; Điều 215 BLHS năm 2015 về Tội gian lận bảo hiểm y tế.

Đối với nhóm tội phạm về ma túy, nhà làm luật cũng có xu hướng nêu chi tiết các chất ma túy kèm với định lượng của chúng trong dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt. Chẳng hạn, so với BLHS năm 1999, trong dấu hiệu định tội và dấu hiệu định khung tăng nặng của Tội sản xuất trái phép chất ma túy, Tội mua bán trái phép chất ma túy, Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, Tội vận chuyển trái phép chất ma túy hoặc Tội chiếm đoạt chất ma túy, nhà làm luật đã bổ sung thêm một số chất ma túy phổ biến như: Methamphetamine, Amphetamine, MDMA. Trong Tờ Trình về Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015; Ban soạn thảo dự định bổ sung thêm một số chất mới như: XLR-11 (gọi là cỏ Mỹ) và lá KHAT.[9] Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng Chính phủ đã ban hành danh mục các chất ma túy bị kiểm soát và các chất này được xác định theo công thức hóa học và tên gọi khoa học. Danh mục này được xây dựng dựa trên các chất bị kiểm soát theo các Công ước của Liên hợp quốc về kiểm soát ma túy. Cỏ Mỹ hay lá KHAT chỉ là tên thương mại hoặc tên thông thường. Để xác định chúng có chứa chất ma túy bị kiểm soát hay không, cần phải giám định và xác định thông qua công thức hóa học của chúng. Theo Ban soạn thảo, những chất này nằm trong danh mục các chất ma túy bị kiểm soát. Như vậy chúng vẫn đang là đối tượng tác động của các tội phạm về ma túy nên không cần thiết phải bổ sung vào dấu hiệu định tội hoặc định khung của các tội phạm về ma túy. Chúng được coi là các chất ma túy khác ở thể rắn hoặc thể lỏng.

Tóm lại, chúng tôi khẳng định sự ủng hộ quan điểm về việc tăng cường các quy định mô tả hơn là quy định giản đơn về dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Tuy nhiên, chúng tôi cũng cho rằng điều này đòi hỏi sự tổng kết thực tiễn, từ đó khái quát các đặc trưng của tội phạm, tránh sự mô tả các dạng hành vi cụ thể hoặc các đối tượng tác động cụ thể trong thực tiễn, đồng thời tránh bỏ sót những hành vi có tính nguy hiểm cao cho xã hội nhưng lại không bị coi là tội phạm. Đối với dạng hạn chế này, Ban soạn thảo cần rà soát một lần nữa những tội phạm còn mang tính liệt kê để có sự điều chỉnh phù hợp. Mô hình quy định viện dẫn, theo chúng tôi, cũng là một lựa chọn tốt khi các văn bản luật chuyên ngành đã chỉ rõ những hành vi vi phạm trong lĩnh vực liên quan.

(iii) Thứ ba, thiếu chuẩn xác trong mô tả hành vi khách quan của tội phạm

Vừa qua, sai sót về dấu hiệu định tội và định khung hình phạt của một số tội phạm nhất định đã được phát hiện và Ban soạn thảo đã tập hợp trình Quốc hội chỉnh sửa. Với quan sát cá nhân, chúng tôi thấy rằng vẫn còn quy định thiếu chuẩn xác hoặc trùng lặp về dấu hiệu định tội ở một số tội. Có thể lấy ví dụ về dấu hiệu định tội của tội đưa hối lộ và tội nhận hối lộ. Theo khoản 1 Điều 354 BLHS năm 2015, hành vi khách quan của tội nhận hối lộ gồm có “nhận” hoặc “sẽ nhận” lợi ích không chính đáng. Theo khoản 1 Điều 364 BLHS năm 2015, hành vi khách quan của tội đưa hối lộ là “đã đưa” hoặc “sẽ đưa” lợi ích không chính đáng. Như vậy, cách quy định về hành vi khách quan của hai tội danh này chưa thống nhất. Ngoài ra, đối với tội đưa hối lộ, nếu người phạm tội bị bắt quả tang “đang đưa” thì sẽ không rơi vào các trường hợp nêu trong điều luật là “đã đưa” hoặc “sẽ đưa”. Ngoài ra, với nguyên tắc hành vi, chúng ta chỉ có thể xử lý một người đối với hành vi mà họ đã thực hiện và không thể xử lý một người đối với hành vi được phỏng đoán rằng họ “sẽ” thực hiện. Vì vậy, hành vi “sẽ đưa” cần phải được sửa lại là “thỏa thuận đưa” hoặc “đề nghị đưa” (nếu cần thiết xử lý sớm hơn nữa) theo cách hiểu trong thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như tinh thần của Công ước của Liên hợp quốc về Chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 (TOC 2000) và Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng năm 2003.[10]

Hoặc có thể lấy ví dụ về quy định tại điểm c khoản 1 Điều 324 BLHS năm 2015 về hành vi khách quan của tội rửa tiền: “Che giấu thông tinvề nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có hoặc cản trở việc xác minh các thông tin đó”. Chúng tôi thiết nghĩ trường hợp một người biết về một điều gì đó, thông tin ở trong đầu óc của họ thì họ không “che giấu thông tin” mà chỉ có thể “không tiết lộ” thông tin. Vì vậy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 324 BLHS năm 2015 về hành vi khách quan của tội rửa tiền là chưa chuẩn xác. Theo Điều 6(1)(a)(ii) Côngước TOC 2000, hành vi rửa tiền là hành vi“Che giấu hoặc ngụy trang bản chất thật sự, nguồn gốc, địa điểm, sự phân tán, sự di chuyển, quyền sở hữu hay những quyền khác có liên quan đến tài sản, biết rằng tài sản đó do phạm tội mà có”. Theo chúng tôi, quy định của Công ước là chuẩn xác và việc nhà làm luật thay đổi đối tượng tác động từ “bản chất thật sự, nguồn gốc, địa điểm, sự phân tán, sự di chuyển, quyền sở hữu hay những quyền khác có liên quan đến tài sản, biết rằng tài sản đó do phạm tội mà có” thành “thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có” đã làm cho quy định của Việt Nam trở nên thiếu chuẩn xác.

Tóm lại, với mong muốn Bộ luật Hình sự Việt Nam ngày càng hoàn thiện về cả về kỹ thuật lập pháp và nội dung, chúng tôi đã cố gắng phân loại một số dạng sai sót về kỹ thuật và nội dung trong quy định của BLHS năm 2015 để Ban Soạn thảo thuận tiện trong việc nhận diện và rà soát kỹ lưỡng các hạn chế của BLHS năm 2015. Đồng thời, với những sai sót như đã phân tích, chúng tôi hy vọng trong lần sửa đổi này, nhà làm luật sẽ cân nhắc, xử lý thấu đáo và toàn diện các hạn chế, dù là hạn chế nhỏ nhất.

CHÚ THÍCH

[1] Bộ Tư pháp, Tờ trình về Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13, tháng 8/2016.

[2] Bộ Tư pháp, Tờ trình về Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13, tháng 8/2016.

[3] Bộ Tư pháp, Tờ trình về Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13, tháng 8/2016.

[4] Để thuận lợi cho việc theo dõi, trong bài viết này, chúng tôi thống nhất các thức gọi các điều luật quy định CTTP cơ bản theo mô hình liệt kê hành vi phạm tội trước và liệt kê các dấu hiệu định tội khác sau là “Mô hình Điều 261 BLHS năm 2015”; ngược lại, các điều luật quy định CTTP cơ bản theo mô hình liệt kê các dấu hiệu định tội khác trước, liệt kê các hành vi phạm tội khác sau là “Mô hình Điều 278 BLHS năm2015”.

[5] Xem Điều 17 và Điều 52 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

[6] Ban soạn thảo,Thuyết minh về Dự thảo BLHS tháng 04/2015, tr. 23.

[7] Tác giả nhấn mạnh.

[8] Khi mô tả một số tội phạm, nhà làm luật đã đưa những hành vi vi phạm quy định trong luật chuyên ngành vào BLHS. Với sự vận động và thay đổi của các quan hệ xã hội, luật chuyên ngành có thể được sửa đổi, bổ sung để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội và các hành vi mới phát sinh. Việc quy định thiếu khái quát trong BLHS còn có thể dẫn đến sự mâu thuẫn với luật chuyên ngành.

[9] Ban soạn thảo,Tờ trình về Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 tháng 04/2015, tr. 7 và tr. 14.

[10] Xem United Nations Office on Drugs and Crime, Legislative guides for implementation of the United Nations Convention against Transnational Organized Crime(2004), United Nations, tr. 83.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Ban soạn thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Bản thuyết minh chi tiết về Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Hà Nội, tháng 4/2015. [trans: Drafting Committee of the Criminal Code (amendments), Detailed Explanations to the (drafted) Criminal Code (amendments), Ha Noi, April 2015]
  • Ban soạn thảo, Tờ trình về Dự thảo Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 tháng 04/2015[Trans: Drafting Committee of the Criminal Code (amendments), Report on the Project of Criminal Code 2015 (amendments)]
  • Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 [trans: Vietnam’s Criminal Code 1999, amendments 2009]
  • Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 [Trans: Vietnam’s Criminal Code 2015]
  • Bộ Tư pháp, Bản thuyết minh chi tiết về Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, tháng 8/2016 [trans: Ministry of Justice, Detailed Explanations to the (drafted) Law amendments Criminal Code 2015, Ha Noi, August 2016]
  • Bộ Tư pháp, Tờ trình về Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13, tháng 8/2016 [trans: Ministry of Justice, Report on the Project of Criminal Code (amendments) No.100/2015/QH13]
  • Chính phủ, Tờ trình số 186/TTr-CP của Chính phủ về Dự án BLHS (sửa đổi), ngày 27/4/2015 [trans: The Government, Report no. 186/TTr-CP dated April 27, 2015 on the Project of Criminal Code (amendments)]
  • Trần Thị Quang Vinh (Chủ biên), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, 2012 [trans: Tran Thi Quang Vinh (Editor), Textbook on Vietnam’s Criminal Law – General Part, Hong Duc Publishing House – Vietnam’s Bar Association, 2012]
  • United Nations Office on Drugs and Crime, Legislative guides for implementation of the United Nations Convention against Transnational Organized Crime(2004), United Nations
  • https://tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn

Tác giả: Nguyễn Thị Phương Hoa*, – PGS. TS, Phó Trưởng Khoa Luật Hình sự, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. – Vũ Thị Thúy** – TS, Giảng viên Khoa Luật Hình sự, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08(102)/2016 – 2016, Trang 03-12

Chia sẻ bài viết:
  • Share on Facebook

Bài viết liên quan

[EBOOK] Giáo trình Luật Luật Tố tụng hình sự Việt Nam pdf (Tái bản 2018) – Nguồn: Trường Đại học Luật Hà Nội.
[EBOOK] Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam pdf
Luật đầu tư 2014 - Thực trạng và kiến nghị trước yêu cầu nhất thể hóa pháp luật đầu tư
Thực trạng và kiến nghị trước yêu cầu nhất thể hóa pháp luật đầu tư
Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo quy định của BLHS 2015
Một số vấn đề lý luận về tra tấn
Một số vấn đề lý luận về tra tấn
Thực tiễn áp dụng pháp luật về chấm dứt việc nuôi con nuôi tại Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện
Thực tiễn áp dụng pháp luật về chấm dứt việc nuôi con nuôi tại Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện
Quy định mới về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự năm 2015
Quy định mới về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật hình sự năm 2015

Chuyên mục: Hình sự Từ khóa: Góp ý sửa đổi Luật, Luật hình sự, Luật hình sự phần chung, Nguyễn Thị Phương Hoa, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08/2016, Tố tụng hình sự, Vũ Thị Thúy

About ThS. LS. Phạm Quang Thanh

Sinh sống tại Hà Nội. Like Fanpage Luật sư Online - iluatsu.com để cập nhật những tin tức mới nhất bạn nhé.

Previous Post: « Quy chế pháp lý của các thực thể lúc nổi lúc chìm trong luật biển quốc tế: Liên hệ từ phán quyết trọng tài vụ Philippines – Trung Quốc
Next Post: Kiến nghị bổ sung quy định về thời điểm thực hiện hành vi phạm tội »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

Tìm kiếm nhanh tại đây:

Tài liệu học Luật

  • Trắc nghiệm Luật | Có đáp án
  • Nhận định Luật | Có đáp án
  • Bài tập tình huống | Đang cập nhật
  • Đề cương ôn tập | Có đáp án
  • Đề Thi Luật | Cập nhật đến 2021
  • Giáo trình Luật PDF | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | TRẢ PHÍ
  • Từ điển Luật học Online| Tra cứu ngay

Tổng Mục lục Tạp chí ngành Luật

  • Tạp chí Khoa học pháp lý
  • Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
  • Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
  • Tạp chí Kiểm sát
  • Tạp chí nghề Luật

Chuyên mục bài viết:

  • Cạnh tranh
  • Dân sự
    • Hợp đồng dân sự thông dụng
    • Tố tụng dân sự
    • Thi hành án dân sự
  • Đất đai
  • Hành chính
    • Luật Hành chính Việt Nam
    • Luật Tố tụng hành chính
  • Hiến pháp
    • Hiến pháp Việt Nam
    • Hiến pháp nước ngoài
    • Giám sát Hiến pháp
  • Hình sự (188)
    • Luật Hình sự – Phần chung (46)
    • Luật Hình sự – Phần các tội phạm (2)
    • Luật Hình sự quốc tế (7)
    • Luật Tố tụng hình sự (59)
  • Hôn nhân gia đình
    • Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam
    • Luật Hôn nhân gia đình chuyên sâu
  • Kiến thức chung
    • Lịch sử văn minh thế giới
  • Lao động (29)
  • Luật Thuế (11)
  • Lý luận chung Nhà nước & Pháp luật (123)
  • Môi trường (22)
  • Ngân hàng (9)
  • Pháp luật đại cương (15)
  • Quốc tế (137)
    • Chuyển giao công nghệ quốc tế (1)
    • Công pháp quốc tế (22)
    • Luật Đầu tư quốc tế (16)
    • Luật Hình sự quốc tế (7)
    • Thương mại quốc tế (54)
    • Tư pháp quốc tế (6)
  • Thương mại (70)
  • Tội phạm học (4)
  • Tư tưởng Hồ Chí Minh (7)

Thống kê: iluatsu.com

  • 10 Chuyên mục
  • 1051 Bài viết
  • 2989 Lượt tư vấn

Footer

Bình luận mới nhất:

  • Nguyễn Hân trong [EBOOK] Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam pdf
  • Huy trong [EBOOK] Giáo trình Luật Thương mại quốc tế pdf
  • Ngọc Anh trong [EBOOK] Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam pdf
  • Toan trong [EBOOK] Giáo trình Luật Thi hành án dân sự Việt Nam pdf
  • Nguyễn Hoàng Phúc trong [EBOOK] Giáo trình Luật Thi hành án dân sự Việt Nam pdf

Bài viết mới:

  • [PDF] Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 – Phần chung 15/02/2021
  • Các bước để trở thành Luật sư ở Việt Nam 29/01/2021
  • [CÓ ĐÁP ÁN] Câu hỏi ôn tập môn Triết học 28/01/2021
  • Tăng cường thực thi pháp luật môi trường tại Việt Nam thông qua nội luật hóa Công ước Basel 1989 27/01/2021
  • Những nội dung mới của BLTTHS 2015 về bảo vệ quyền con người và quyền công dân trong TTHS 26/01/2021

Giới thiệu:

Luật sư Online (https://iluatsu.com) là một web/blog cá nhân, chủ yếu chia sẻ tài liệu, kiến thức pháp luật, tình huống pháp lý và đặc biệt là tư vấn luật hoàn toàn miễn phí…  Hi vọng bạn sẽ tìm thấy nhiều điều bổ ích trên website và đừng quên ghé thăm thường xuyên bạn nhé! Chúng tôi luôn: Tận tâm – Tận tình – Tận tụy!

Copyright © 2021 · Luật sư Online · Giới thiệu ..★.. Liên hệ ..★.. Tuyển CTV ..★.. Quy định sử dụng