• Trang chủ
  • Hiến pháp
  • Hình sự
  • Dân sự
  • Hành chính
  • Hôn nhân gia đình
  • Lao động
  • Thương mại

Luật sư Online

Tư vấn Pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, ly hôn, thừa kế, đất đai

  • Kiến thức chung
    • Học thuyết kinh tế
    • Lịch sử NN&PL
  • Cạnh tranh
  • Quốc tế
  • Thuế
  • Ngân hàng
  • Đất đai
  • Ngành Luật khác
    • Đầu tư
    • Môi trường
 Trang chủ » Bàn về quy định quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng hình sự

Bàn về quy định quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng hình sự

17/05/2020 23/05/2021 TS. Nguyễn Ngọc Kiện Leave a Comment

Mục lục

  • TÓM TẮT
  • 1. Đặt vấn đề
  • 2. Thực trạng về hệ thống quyền hạn tố tụng hình sự của Thẩm phán
    • 2.1. Sự mất cân đối trong việc phân định quyền hạn giữa Chánh án và Thẩm phán
    • 2.2. Quyền hạn hành chính đan xen, lấn át quyền hạn tố tụng
    • 2.3. Một số trường hợp nảy sinh trong thực tế đòi hỏi phải bổ sung một số quyền hạn tố tụng cho Thẩm phán và Chánh án.
  • 3. Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng hình sự
  • CHÚ THÍCH

Bàn về quy định quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng hình sự

Tác giả: TS. Nguyễn Ngọc Kiện

Bàn về quy định quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng hình sự

Xem thêm bài viết về “Thẩm phán”

TÓM TẮT

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 phân định chưa hợp lý quyền hạn tố tụng giữa chủ thể chánh án và thẩm phán. Hoạt động tố tụng của Thẩm phán không thực sự được độc lập do phải phụ thuộc vào quyền hạn tố tụng và quyền hạn quản lý hành chính của Chánh án. Thẩm phán có vai trò trung tâm trong hoạt động xét xử, thế nhưng có rất ít quyền hạn. Cũng như quyền quản lý hành chính và quyền hạn tố tụng hình sự có sự đan xen khó phân biệt. Sự mất cân đối trong việc phân định quyền hạn trong hoạt động tố tụng hình sự của Thẩm phán là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả xét xử chưa cao trong những năm qua. Chủ trương và định hướng cải cách tư pháp đã yêu cầu phải xác định lại thẩm quyền trong hoạt động tố tụng đối với người tiến hành tố tụng. Tác giả đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 liên quan đến quyền hạn của thẩm phán theo hướng khắc phục thực trạng nêu trên, như tăng quyền hạn của thẩm phán, tách quy định về nhiệm vụ, trách nhiệm ra khỏi quyền hạn tố tụng…

Xem thêm tài liệu liên quan:

  • Người tham gia tố tụng theo pháp luật hình sự một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam
  • Một số vấn đề về quyền tiếp cận thông tin môi trường
  • Quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong tố tụng hình sự - Quyền cơ bản của công dân, quyền của những người tham gia tố tụng
  • Bồi thẩm, hội thẩm, thẩm phán không chuyên trong tố tụng hình sự hiện nay ở các nước trên thế giới
  • Hạn chế của điều kiện về quyền tài phán của tòa án nước ngoài trong việc công nhận, thi hành bản án dân sự, thương mại của tòa án nước ngoài trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
  • Quy định thẩm quyền xử phạt theo tỷ lệ phần trăm có khống chế mức trần: Ưu điểm hay hạn chế
  • Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam trong việc nội luật hóa quy định của Công ước Chống tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia về tội phạm hóa hành vi tham nhũng trong lĩnh vực công
  • Một số nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
  • Quyền của người chưa thành niên có sự tham gia của đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức trong quá trình tố tụng hình sự
  • Một số thành công và hạn chế trong quy định của Bộ luật Hình sự 2015 về các hình phạt chính không tước tự do

1. Đặt vấn đề

Trong giai đoạn cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, nhu cầu hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự trở nên vô cùng cần thiết. Một mặt, chúng ta cần phải nhanh chóng thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp vào cuộc sống. Một mặt khi Hiến pháp năm 2013 ghi nhận chính thức nguyên tắc tranh tụng – và đến nay Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) đã có nhiều quy định không còn theo kịp với đời sống xã hội – Quốc hội coi việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS trong thời gian tới có tính cấp thiết cao. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến một trong những nội dung được quan tâm khi sửa đổi BLTTHS, đó là vấn đề xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng hình sự, nhằm tăng cường tính tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự.

2. Thực trạng về hệ thống quyền hạn tố tụng hình sự của Thẩm phán

2.1. Sự mất cân đối trong việc phân định quyền hạn giữa Chánh án và Thẩm phán

So với Kiểm sát viên và Điều tra viên, hoạt động tố tụng của Thẩm phán có tính độc lập cao hơn, vì chủ thể này ra quyết định tố tụng mà không cần phải đề xuất, xin ý kiến của Chánh án Tòa án[1]. Thẩm phán có quyền triệu tập, ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, quyền đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; Chánh án có quyền quyết định về các biện pháp ngăn chặn thì Thẩm phán là chủ tọa phiên tòa cũng được giao quyền này.

Tuy nhiên, trong việc phân định quyền hạn giữa Chánh án và Thẩm phán vẫn còn thể hiện bất cập:

Một là, Điều 38 BLTTHS chỉ quy định Chánh án được áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, thế nhưng các Điều 91, 92, 93 và 146 thì chủ thể này lại được áp dụng rất nhiều biện pháp ngăn chặn khác (cấm đi khỏi nơi cư trú, bão lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm và kê biên tài sản). Vấn đề đặt ra là, Chánh án và Thẩm phán được áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác nhau như thế nào để tránh được sự trùng lặp? Thực tế cho thấy Chánh án đã lạm dụng quyền hạn áp dụng, thay đổi hoặc bỏ các biện pháp ngăn chặn như đã đề cập trên. Mặt khác Điều 39 của BLTTHS chỉ quy định Thẩm phán chủ tọa được áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, trong khi Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hình sự thì không có quyền hạn này, là không hợp lý[2]. Bởi, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử chính Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có điều kiện tiếp cận nội dung, tình tiết vụ án, có quyền ra các quyết định như trả hồ sơ điều tra bổ sung, tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, thì không có lý do gì mà không cho chủ thể này áp dụng các biện pháp ngăn chặn. BLTTHS chỉ quy định Thẩm phán chủ tọa được áp dụng các biện pháp ngăn chặn với mục đích là loại trừ đối với chủ thể là Thẩm phán khác không giữ trách nhiệm chủ tọa trong phiên tòa phúc thẩm, nhưng đã vô hình trung loại trừ cả chủ thể là Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án ở cấp xét xử sơ thẩm và tạo sự lạm quyền trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn của Chánh án ở giai đoạn chuẩn bị xét xử.

Hai là,các quyền hạn tố tụng cụ thể đã xác lập cho Chánh án nên được giao cho Thẩm phán[3], đó là: quyết định xử lý vật chứng; quyết định chuyển vụ án; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; quyết định áp dụng, hủy bỏ hoặc thay thế các biện pháp ngăn chặn: cấm đi khỏi nơi cư trú, bão lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm; kê biên tài sản. Điều này một mặt sẽ tránh được sự “ôm đồm” cho Chánh án, mặt khác tạo sự chủ động, kịp thời cho Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án, tránh được sự lãng phí thời gian do phải báo cáo đề xuất, xin ý kiến, đồng thời tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của Thẩm phán cũng sẽ được nâng lên rõ rệt.

Về các biện pháp ngăn chặn, chỉ nên quy định Chánh án có quyền hạn trong việc bắt, tạm giam. Lưu ý là để tránh tình trạng lạm dụng trong việc áp dụng biện ngăn chặn tạm giam mà hiện nay chưa thể khắc phục được, cần phải quy định Chánh án chỉ được áp dụng biện pháp bắt, tạm giam trong các trường hợp: bị can, bị cáo cố tình trốn tránh việc triệu tập; bỏ trốn đã bị bắt theo lệnh truy nã (trừ trường hợp ra đầu thú); phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm; phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.

Bên cạnh đó, Điều 141 BLTTHS quy định Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng xét xử có quyền ra lệnh khám xét trong mọi trường hợp. Quy định này thiếu tính khả thi trong những năm qua, đồng thời việc trao quyền hạn tố tụng này đã vô hình trung áp đặt quyền chứng minh tội phạm và chức năng buộc tội cho Tòa án, trong khi vốn dĩ Tòa án chỉ làm chức năng xét xử.

2.2. Quyền hạn hành chính đan xen, lấn át quyền hạn tố tụng

Một là,việc BLTTHS quy định đan xen giữa nhiệm vụ, trách nhiệm với quyền hạn của Thẩm phán và Chánh án tại Điều 39, Điều 38 đề cập trên đã gây khó phân biệt đâu là nhiệm vụ, đâu là trách nhiệm và quyền hạn. Nó còn làm giảm đi hiệu lực của quy phạm pháp luật, và hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật bị giảm sút. Ví dụ, khoản 1 Điều 39 BLTTHS có tên gọi “Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây”, tuy nhiên ở nội dung của khoản 1 này lại không có quyền hạn nào được quy định mà chỉ là nhiệm vụ được đặt ra. Do đó để đảm bảo kỷ năng lập pháp, cần phải tách quyền hạn, thiết kế riêng về trách nhiệm và nhiệm vụ ở một điều luật.

Hai là,phương thức phân công quyền hạn của Chánh án cho Phó Chánh án được đặt ra tại khoản 3 Điều 38 BLTTHS còn bộc lộ hạn chế bởi quy định khi được phân công thì Phó Chánh án có quyền hạn chẳng khác gì Chánh án. Cần phải quy định Phó Chánh án có những quyền hạn tố tụng nào khác với Chánh án, để nâng cao trách nhiệm cá nhân của người tiến hành tố tụng và để hoạt động của họ tránh được sự tùy tiện.

Một thực tế khác là khi Chánh án và Phó Chánh án trực tiếp giải quyết, xét xử vụ án thì họ có vai trò, quyền hạn như một Thẩm phán, nhưng pháp luật chưa quy định rõ vấn đề này, dẫn đến có sự đan xen, nhầm lẫn giữa thẩm quyền quản lý hành chính và thẩm quyền tố tụng. Ví dụ như có sự nhầm lẫn về chủ thể ký các văn bản tố tụng. Bên cạnh đó, điểm d khoản 1 Điều 39 BLTTHS quy định Thẩm phán tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh án. Quy định này có thể được hiểu là ngoài những quyền hạn đã định cho Thẩm phán, thì có những quyền hạn tố tụng và hoạt động tố tụng khác Chánh án có quyền phân công cho Thẩm phán thực hiện. Chúng tôi cho rằng hoạt động tố tụng phải do pháp luật tố tụng quy định, chứ không phải là sự tùy nghi theo sự phân công của Chánh án. Do vậy luật cần quy định theo hướng tạo chủ động cho Thẩm phán nhằm thực hiện quyền hạn của họ.

2.3. Một số trường hợp nảy sinh trong thực tế đòi hỏi phải bổ sung một số quyền hạn tố tụng cho Thẩm phán và Chánh án.

Trước yêu cầu của thực tiễn, phải bổ sung một số quyền hạn mới cho Thẩm phán và Chánh án. Ví dụ, có trường hợp trong quá trình chuẩn bị xét xử bị can bỏ trốn, sau đó bắt được bị can nhưng Bộ luật tố tụng hình sự không quy định Thẩm phán được phục hồi vụ án đối với bị can bỏ trốn. Rất nhiều vụ án Tòa án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung trong trường hợp đã bắt được bị can, bị cáo như đã nêu, gây lãng phí thời gian, chi phí tố tụng. Trong khi đó chỉ cần sau khi Cơ quan điều tra bắt được bị can, bị cáo đồng thời ra quyết định thông báo cho Tòa án, thì Thẩm phán chỉ cần ra quyết định phục hồi vụ án đối với bị can (bị cáo) bỏ trốn là đủ. Bên cạnh đó, BLTTHS vẫn còn thiếu quy định Thẩm phán được yêu cầu Điều tra viên truy nã bị can, bị cáo để xử lý trường hợp bỏ trốn như đã nêu. Cũng như phải quy định chính thức cho Thẩm phán được ra quyết định áp giải bị cáo đến phiên tòa, quyết định dẫn giải người làm chứng, và quyết định tạm giữ, xử phạt hành chính đối với người vi phạm nội quy phiên tòa.

Đối với chủ thể là Chánh án Tòa án, cần thiết phải bổ sung quyền hạn ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó Chánh án và Thẩm phán, rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Tòa án cấp dưới. Điều này phù hợp với thực tế khi ban hành văn bản, quyết định trong hoạt động tố tụng có vi phạm, sai sót được phát hiện, hoặc bị kiến nghị, kháng nghị mà xét cần phải khắc phục, sữa chữa kịp thời.

3. Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng hình sự

Một là, Điều 38 và Điều 39 BLTTHS nên được thiết kế lại như sau (Quyền hạn của Thẩm phán đặt trước rồi mới đến quyền hạn của Chánh án, Phó Chánh án):

“Điều 38. Quyền hạn tố tụng của Thẩm phán

Thẩm phán có các quyền hạn tố tụng sau đây:

1- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn sau đây: Cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, kê biên tài sản; đề nghị Chánh án áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn: Bắt, tạm giam;

2- Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung;

3- Quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án;quyết định phục hồi vụ án đối với bị can bỏ trốn; yêu cầu Điều tra viên truy nã bị can, bị cáo;

4- Quyết định chuyển vụ án;

5- Quyết định xử lý vật chứng;

6- Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa, đề nghị Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên Mặt trận cử người bào chữa trong trường hợp luật định;

7- Quyết định tạm giữ, xử phạt hành chính đối với người vi phạm nội quy phiên tòa;

8- Quyết định triệu tập; quyết định áp giải bị cáo đến phiên tòa; quyết định dẫn giải người làm chứng;

9- Có quyền từ chối tham gia tố tụng khi có căn cứ theo quy định của Bộ luật này”.

“Điều 39. Quyền hạn tố tụng của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án

1- Chánh án Tòa án có các quyền hạn tố tụng sau đây:

a) Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn: Bắt, tạm giam;

b) Quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký tòa án trước khi mở phiên tòa;

c) Quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó Chánh án và Thẩm phán;

d) Rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Tòa án cấp dưới;

đ) Kháng nghị theo theo thủ tục giám đốc thẩm các bản án, quyết định;

e) Ra quyết định thi hành án hình sự; quyết định hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; quyết định xóa án tích;

g) Ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án; khi trực tiếp giải quyết, xét xử đối với vụ án hình sự cụ thể thì có vai trò là Thẩm phán, được tiến hành các hoạt động tố tụng và có quyền hạn như Thẩm phán quy định tại Điều 38 Bộ luật này.

2- Chánh án Tòa án vắng mặt vì lý do khách quan được ủy nhiệm cho Phó Chánh án tiến hành hoạt động tố tụng. Trường hợp này Phó Chánh án Tòa án có các quyền hạn tại điểm a, b, e, tại khoản 1 Điều này; khi trực tiếp giải quyết, xét xử đối với vụ án hình sự cụ thể Phó Chánh án có vai trò là Thẩm phán, được tiến hành các hoạt động tố tụng và có quyền hạn như Thẩm phán quy định tại Điều 38 Bộ luật này”.

Hai là,đề xuất quy định về nhiệm vụ, trách nhiệm của Chánh án, Thẩm phán và Thư ký Tòa án ở một điều luật như sau:

“Điều … Nhiệm vụ và trách nhiệm của Chánh án, Thẩm phán và Thư ký Tòa án trong hoạt động tố tụng

Chánh án, Thẩm phán và Thư ký Tòa án có nhiệm vụ chung là bảo vệ pháp chế Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.

Về nhiệm vụ, trách nhiệm cụ thể như sau:

1- Chánh án Tòa án có những nhiệm vụ và trách nhiệm sau đây:

a) Tổ chức, chỉ đạo và kiểm tracông tác xét xử của Tòa án;

b) Phân công Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm giải quyết, xét xử vụ án hình sự; phân công Thư ký tòa án tiến hành tố tụng hình sự;

c) Giải quyết khiếu nại tố cáo thuộc thẩm quyền.

2- Thẩm phán Tòa án có những nhiệm vụ và trách nhiệm sau đây:

a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa;

b) Tham gia xét xử các vụ án hình sự;

c) Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử.

3- Thư ký Tòa án có những nhiệm vụ và trách nhiệm sau đây:

a) Thụ lý vụ án hình sự; giao nhận và lưu trữ hồ sơ vụ án hình sự;

b) Cấp, tống đạt các văn bản, quyết định, bản án của Tòa án;

c) Căn cứ quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa;

d) Trong quá trình chuẩn bị xét xử, lập biên bản tiếp nhận các văn bản, tài liệu, vật chứng, tài sản, vật thể do Viện kiểm sát và người tham gia tố tụng cung cấp và đưa vào hồ sơ vụ án hoặc chuyển đến kho vật chứng của Cơ quan Thi hành án dân sự;

đ) Phổ biến nội quy phiên tòa và kiểm tra căn cước của những người được triệu tập đến phiên tòa;

e) Công bố bút lục hồ sơ, tài liệu, vật chứng tại phiên tòa theo yêu cầu của Hội đồng xét xử;

g) Ghi biên bản phiên tòa; công bố biên bản phiên tòa ngay sau khi tuyên án;

h) Thực hiện các hoạt động tố tụng khác giúp Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án thuộc thẩm quyền của những người này”.

Ba là,Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 141 theo đó bỏ quyền hạn khám xét của Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án như sau:

“Điều 141. Thẩm quyền ra lệnh khám xét

1- Những người được quy định tại các điểm a, d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét trong mọi trường hợp. Lệnh khám xét của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành”.

CHÚ THÍCH

[1] Ở Cơ quan điều tra và cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên và Kiểm sát viên không được ban hành quyết định tố tụng mà chỉ là người thực hiện các quyết định của Thủ trưởng Cơ quan điều tra và của Viện trưởng.

[2] Lưu ý là BLTTHS chưa phân biệt Thẩm phán được phân công giải quyết án vụ án khác với Thẩm phán chủ tọa phiên tòa như thế nào, mặc dù đã đặt ra nhiệm vụ, quyền hạn cho họ – là một bất cập gây lúng túng trong nhận thức.

[3] Điều 38, Điều 39 và ở 21 điều chi tiết khác của BLTTHS quy định 5 quyền hạn tố tụng cho Thẩm phán và Chánh án Tòa án có 17 quyền hạn này.

Tác giả: Nguyễn Ngọc Kiện -* ThS, Giảng viên Trường Đại học Huế.

Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2014 (83)/2014 – 2014, Trang 44-48

Chia sẻ bài viết:
  • Share on Facebook

Bài viết liên quan

Bồi thẩm, hội thẩm, thẩm phán không chuyên trong tố tụng hình sự hiện nay ở các nước trên thế giới
Bồi thẩm, hội thẩm, thẩm phán không chuyên trong tố tụng hình sự hiện nay ở các nước trên thế giới
Kỹ năng áp dụng biện pháp xem xét, thẩm định tại chỗ của Thẩm phán trong xây dựng hồ sơ vụ án dân sự
Kỹ năng áp dụng biện pháp xem xét, thẩm định tại chỗ của Thẩm phán trong xây dựng hồ sơ vụ án dân sự
Sử dụng án lệ trong đào tạo Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư tại Học viện Tư pháp
Sử dụng án lệ trong đào tạo Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư tại Học viện Tư pháp
Đổi mới việc tổ chức triển khai đào tạo kỹ năng mềm trong chương trình đào tạo chung nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư tại Học viện Tư pháp
Đổi mới việc tổ chức triển khai đào tạo kỹ năng mềm trong chương trình đào tạo chung nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư tại Học viện Tư pháp
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh hành chính chuyên môn trong Tòa án
Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh hành chính chuyên môn trong Tòa án

Chuyên mục: Hình sự/ Tố tụng hình sự Từ khóa: Quyền hạn/ Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam/ Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2014/ Thẩm phán

Previous Post: « Bảo đảm quyền của người chưa thành niên là con của phạm nhân trong pháp Luật Thi hành án hình sự Việt Nam 2010
Next Post: Một số vấn đề pháp lý từ bản án VLM FOOD TRADING INTERNATIONAL, INC. V. ILLINOIS TRADING CO., 2013 WL 816103 (N.D.ILL.2013) của Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

Tìm kiếm nhanh tại đây:

Tài liệu học Luật

  • Trắc nghiệm Luật | Có đáp án
  • Nhận định Luật | Có đáp án
  • Bài tập tình huống | Đang cập nhật
  • Đề cương ôn tập | Có đáp án
  • Đề Thi Luật | Cập nhật đến 2021
  • Giáo trình Luật PDF | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | TRẢ PHÍ
  • Từ điển Luật học Online| Tra cứu ngay

Tổng Mục lục Tạp chí ngành Luật

  • Tạp chí Khoa học pháp lý
  • Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
  • Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
  • Tạp chí Kiểm sát
  • Tạp chí nghề Luật

Chuyên mục bài viết:

  • An sinh xã hội
  • Cạnh tranh
  • Chứng khoán
  • Cơ hội nghề nghiệp
  • Dân sự
    • Luật Dân sự Việt Nam
    • Tố tụng dân sự
    • Thi hành án dân sự
    • Hợp đồng dân sự thông dụng
    • Pháp luật về Nhà ở
    • Giao dịch dân sự về nhà ở
    • Thừa kế
  • Doanh nghiệp
    • Chủ thể kinh doanh và phá sản
  • Đất đai
  • Giáo dục
  • Hành chính
    • Luật Hành chính Việt Nam
    • Luật Tố tụng hành chính
    • Tố cáo
  • Hiến pháp
    • Hiến pháp Việt Nam
    • Hiến pháp nước ngoài
    • Giám sát Hiến pháp
  • Hình sự
    • Luật Hình sự – Phần chung
    • Luật Hình sự – Phần các tội phạm
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Luật Tố tụng hình sự
    • Thi hành án hình sự
    • Tội phạm học
    • Chứng minh trong tố tụng hình sự
  • Hôn nhân gia đình
    • Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam
    • Luật Hôn nhân gia đình chuyên sâu
  • Lao động
  • Luật Thuế
  • Môi trường
  • Ngân hàng
  • Quốc tế
    • Chuyển giao công nghệ quốc tế
    • Công pháp quốc tế
    • Luật Đầu tư quốc tế
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Thương mại quốc tế
    • Tư pháp quốc tế
    • Tranh chấp Biển Đông
  • Tài chính
    • Ngân sách nhà nước
  • Thương mại
    • Luật Thương mại Việt Nam
    • Thương mại quốc tế
    • Pháp luật Kinh doanh Bất động sản
    • Pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm
    • Nhượng quyền thương mại
  • Sở hữu trí tuệ
  • Kiến thức chung
    • Đường lối Cách mạng ĐCSVN
    • Học thuyết kinh tế
    • Kỹ năng nghiên cứu và lập luận
    • Lý luận chung Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử văn minh thế giới
    • Logic học
    • Pháp luật đại cương
    • Tư tưởng Hồ Chí Minh
    • Triết học

Quảng cáo:

Copyright © 2023 · Luật sư Online · Giới thiệu ..★.. Liên hệ ..★.. Tuyển CTV ..★.. Quy định sử dụng