Mục lục
Bàn về một số vướng mắc trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền kháng cáo
TÓM TẮT
Việc ghi nhận quyền kháng cáo trong tố tụng hình sự (TTHS) là một cách thức để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đồng thời đảm bảo tính đúng đắn, hợp pháp của các bản án được thi hành. Pháp luật đã quy định khá cụ thể cách thức, thủ tục cũng như những đảm bảo thi hành từ phía các cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm có hiệu lực, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) về quyền kháng cáo cũng đã dần bộc lộ những hạn chế cần sửa đổi.
Xem thêm bài viết về “Kháng cáo”
- Về đơn kháng cáo phúc thẩm trong tố tụng dân sự – PGS.TS. Đỗ Văn Đại & ThS. Phan Nguyễn Bảo Ngọc
Quyền kháng cáo phúc thẩm vụ án hình sự là quyền của một số người tham gia tố tụng mà pháp luật cho phép trong thời hạn và bằng thủ tục luật định được yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định mà bản án, quyết định sơ thẩm đó chưa phát sinh hiệu lực.
Quyền kháng cáo là một quyền năng tố tụng cơ bản của bị cáo cũng như của một số người tham gia tố tụng khác. Việc ghi nhận quyền này là một cách thức để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đồng thời đảm bảo tính đúng đắn, hợp pháp của các bản án được đưa ra thi hành. Pháp luật đã quy định khá cụ thể cách thức, thủ tục cũng như những đảm bảo thi hành từ phía các cơ quan có thẩm quyền nên việc thực hiện quyền kháng cáo phúc thẩm hình sự của các chủ thể trong những năm qua đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, với hơn 10 năm có hiệu lực, các quy định của BLTTHS về quyền kháng cáo cũng đã dần bộc những hạn chế cần sửa đổi. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập một số vướng mắc trong quy định pháp luật tố tụng hình sự về quyền kháng cáo, đồng thời đề xuất sửa đổi, bổ sung BLTTHS về quyền kháng cáo.
1. Phạm vi kháng cáo
Chủ thể có quyền kháng cáo là những người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích liên quan đến bản án, quyết định sơ thẩm và phạm vi kháng cáo của từng chủ thể sẽ phụ thuộc vào tư cách tố tụng của chủ thể đó. Nội dung mà người tham gia tố tụng có quyền yêu cầu xem xét lại sẽ phụ thuộc vào mức độ ảnh hưởng của nội dung bản án đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Theo đó, quyền và lợi ích bị ảnh hưởng đến đâu thì kháng cáo đến đấy. Nhìn chung, các quy định pháp luật về chủ thể có quyền kháng cáo và phạm vi kháng cáo hợp lý. Tuy nhiên, vẫn còn một số quy định chưa cụ thể, chưa thống nhất gây khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật. Cụ thể:
– Phạm vi kháng cáo của bị cáo: Điều 231 BLTTHS quy định: “Bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Cách quy định như trên của pháp luật hiện hành rất dễ gây nhầm lẫn. Theo cách quy định này, bị cáo có thể kháng cáo đối với toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án. Vấn đề này không phù hợp về mặt lý luận bởi vì không phải lúc nào toàn bộ nội dung bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm cũng ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Bị cáo chỉ được quyền yêu cầu xem xét lại những phần nào liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các phần khác không liên quan, bị cáo sẽ không có quyền kháng cáo. Do đó, pháp luật cần quy định rõ ràng, cụ thể hơn về vấn đề này để có thể thực hiện thống nhất trên thực tế.
– Phạm vi kháng cáo của người bị hại: Theo quy định của pháp luật hiện hành thì “…người bị hại… có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm” (Điều 231 BLTTHS). Như vậy, người bị hại có quyền kháng cáo một phần hoặc kháng cáo toàn bộ nội dung bản án, quyết định tùy vào sự đánh giá chủ quan của người bị hại về tính đúng đắn của bản án, quyết định sơ thẩm. Với cách quy định như Điều 231 BLTTHS hiện hành thì người bị hại có quyền yêu cầu xem xét lại tất cả các vấn đề mà bản án sơ thẩm đã đề cập như: tội danh, hình phạt chính, hình phạt bổ sung, mức hình phạt chính, mức phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, mức bồi thường, xử lý vật chứng, án phí… Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả và nhiều tác giả khác thì quy định như Điều 231 là quá rộng và không cần thiết bởi lẽ có những quyết định trong bản án về xử lý vật chứng, về án phí… không liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại và trên thực tế họ cũng không kháng cáo về các quyết định đó[1]. Mặt khác, phạm vi kháng cáo theo Điều 231 BLTTHS sẽ mâu thuẫn với điểm e, khoản 2 Điều 51 BLTTHS bởi Điều 51 BLTTHS quy định: “Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền… kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo”. Với quy định trên, người bị hại chỉ có quyền kháng cáo phần bồi thường và các vấn đề về phần hình phạt đối với bị cáo như loại hình phạt, mức hình phạt, khung hình phạt mà không có quyền kháng cáo về tội danh, về việc miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo… Như vậy, ngược lại với quy định tại Điều 231 BLTTHS, Điều 51 BLTTHS lại xác định phạm vi kháng cáo của người bị hại theo tác giả là quá hẹp, hạn chế quyền kháng cáo của người bị hại. Trong khi đó, theo Điều 249 BLTTHS quy định về quyền sửa bản án thì Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ có quyền sửa trong phạm vi hình phạt và phần bồi thường mà còn mở rộng ra các vấn đề khác ngoài phạm vi mà người bị hại được kháng cáo theo Điều 51 BLTTHS như tội danh, khung hình phạt, việc áp dụng án treo… Vì vậy, tác giả cho rằng cần sửa đổi, quy định một cách thống nhất phạm vi kháng cáo của người bị hại nhằm đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời phù hợp với các quy định khác có liên quan.
– Phạm vi kháng cáo của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự: Xuất phát từ một vấn đề mang tính lý luận, nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự tham gia vào vụ án hình sự là để giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại. Một bên đưa ra yêu cầu bồi thường và một bên có nghĩa vụ thực hiện yêu cầu bồi thường. Chính vì vậy, Điều 231 BLTTHS quy định phạm vi kháng cáo của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ như sau: “Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại”. Tuy nhiên, đối với một số vụ án khi chính tổ chức, pháp nhân bị người phạm tội trực tiếp xâm hại, gây nên những tổn thất thì cách quy định phạm vi kháng cáo như hiện nay cũng chưa hoàn toàn hợp lý. Do pháp luật nước ta không thừa nhận pháp nhân, tổ chức là người bị hại nên trong một số trường hợp nguyên đơn dân sự cũng gánh chịu những thiệt hại do tội phạm gây ra. Thiệt hại này là hậu quả trực tiếp của tội phạm, về bản chất không khác so với thiệt hại của người bị hại; việc quyết định hình phạt đối với bị cáo trong trường hợp này rõ ràng ảnh hưởng nhất định đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự nên lẽ ra họ cũng phải được quyền kháng cáo về phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
– Phạm vi kháng cáo của người bảo vệ quyền lợi cho đương sự là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần: Đương sự (người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan) là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần thì người bảo vệ cho quyền lợi của những người này có quyền kháng cáo thay.
Phạm vi kháng cáo của người bảo vệ quyền lợi cho đương sự được quy định: “…có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.” (Điều 231 BLTTHS). Như vậy, việc xác định phạm vi kháng cáo của người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong trường hợp này phụ thuộc vào người được bảo vệ là ai, tư cách tố tụng là gì. Tùy vào tư cách tố tụng của người được bảo vệ, phạm vi kháng cáo sẽ khác nhau.
Một vấn đề đặt ra là nếu như người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại, cho nguyên đơn dân sự mà kháng cáo theo hướng bất lợi cho bị cáo, cho bị đơn dân sự thì kháng cáo đó được chấp nhận không vì Khoản 3 Điều 249 BLTTHS có quy định: “trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn”. Rõ ràng, kháng cáo theo hướng nặng hơn cho bị cáo, bị đơn dân sự của người bảo vệ quyền lợi cho đương sự không được xem là một trong những điều kiện để sửa án theo hướng nặng hơn. Trong khi đó, Điều 231 BLTTHS lại không quy định người bảo vệ quyền lợi cho đương sự được kháng cáo theo hướng nào đối với bị cáo, bị đơn dân sự. Vấn đề này cần được điều chỉnh cho phù hợp.
2. Thời hạn kháng cáo
Thời hạn kháng cáo là khoảng thời gian mà pháp luật quy định cho các chủ thể có quyền kháng cáo thực hiện quyền kháng cáo của mình[2]. Sự hợp pháp của kháng cáo về thời hạn là một trong những điều kiện làm phát sinh hiệu lực của kháng cáo. Do đó, mọi kháng cáo phải được thực hiện đúng thời hạn trừ trường hợp kháng cáo quá hạn (khi có lý do chính đáng và được Tòa án có thẩm quyền chấp nhận).
– Thời hạn kháng cáo đối với bản án là “15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết”. (Điều 234 BLTTHS)
Thời hạn kháng cáo đối với quyết định của Tòa án là “7 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định”. (khoản 2 Điều 239 BLTTHS)
Bên cạnh đó, Điều 235 BLTTHS quy định: việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận, nếu có lý do chính đáng.
Nhìn chung, thời hạn kháng cáo đối với bản án, quyết định của Tòa án như quy định hiện hành là tương đối hợp lý. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy có một vài hạn chế cần giải quyết:
– Thời hạn kháng cáo sẽ được xác định như thế nào đối với trường hợp bị cáo tham gia phiên tòa nhưng lại bỏ trốn trong thời gian Hội đồng xét xử nghị án? Thời hạn kháng cáo sẽ là “15 ngày kể từ ngày tuyên án” hay là 15 ngày “tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết”?
– Mặc dù thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo được hướng dẫn khá rõ ràng và cụ thể tại Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP nhưng cách quy định tại Điều 234 BLTTHS hiện hành rất dễ gây nhầm lẫn. Cụm từ “kể từ” trong quy định “thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án….” rất dễ làm người đọc nhầm tưởng là ngày tòa tuyên án sẽ là thời điểm bắt đầu của thời hạn kháng cáo, đặc biệt là đối với những người tham gia tố tụng có trình độ am hiểu pháp lý không cao. Bên cạnh đó, pháp luật TTHS chỉ quy định hướng xử lý khi ngày cuối cùng của thời hạn kháng cáo rơi vào ngày nghỉ, ngày lễ còn trường hợp nếu ngày bắt đầu của thời hạn này rơi vào ngày lễ, ngày nghỉ thì vẫn chưa có hướng dẫn rõ ràng.
– Về mặt kỹ thuật lập pháp của quy định về thời hạn kháng cáo có điểm còn chưa hợp lý. Điều 234 BLTTHS có tên là “Thời hạn kháng cáo, kháng nghị”. Thiết nghĩ tên điều luật như vậy thì phải bao gồm cả thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối bản án và thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định. Nếu đã tồn tại Điều 239 BLTTHS “Thời hạn kháng cáo, kháng nghị những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm” thì Điều 234 BLTTHS phải có tên là “Thời hạn kháng cáo, kháng nghị những bản án của Tòa án cấp sơ thẩm”. Theo tác giả, nên chăng quy định hai trường hợp này vào chung một điều luật, tương tự như Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành.
– Việc kháng cáo quá hạn chỉ được chấp nhận khi có lý do chính đáng. Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP đã phần nào làm rõ thế nào là “lý do chính đáng”. Tuy nhiên, các nhà làm luật trong phạm vi có thể nên chỉ rõ các trường hợp cụ thể để thống nhất áp dụng trên thực tế. Mặt khác, pháp luật hiện hành không quy định thời hạn chủ thể có quyền kháng cáo phải thực hiện hoạt động này sau khi chấm dứt lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Mặc dù hiện nay, Tòa án có thẩm quyền vẫn còn dựa vào Thông tư liên tịch số 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT ngày 08/12/1988.của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao để yêu cầu “phải làm đơn kháng cáo ngay sau khi cản trở không còn nữa” nhưng đây là Thông tư hướng dẫn BLTTHS năm 1988 vì vậy cần nhanh chóng quy định nội dung này vào bộ luật hiện hành để đảm bảo cơ sở pháp lý khi áp dụng.
Ngoài ra, việc quy định phải thành lập “hội đồng xét xử” để xét lý do kháng cáo quá hạn, để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận ở Điều 235 BLTTHS là không phù hợp về mặt lý luận. Hoạt động xét xử của Tòa án luôn gắn liền với hoạt động buộc tội. Trong trường hợp này, việc thành lập hội đồng là để xét lý do kháng cáo quá hạn, để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận chứ hoàn toàn không xét xử. Vì vậy, việc dùng cụm từ xét xử ở quy định này theo quan điểm của tác giả là chưa thật chuẩn xác, cần có sự điều chỉnh cho phù hợp hơn. Thêm vào đó, Tiểu mục 5.3 mục 5 phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP quy định “Phiên họp xét lý do kháng cáo quá hạn không bắt buộc phải có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp”, theo quan điểm của tác giả thì việc xét lý do kháng cáo quá hạn là một hoạt động gây ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo cũng như những người có liên quan. Do đó, để đảm bảo tính chính xác, hợp pháp và có căn cứ trong việc xét lý do kháng cáo quá hạn, sự kiểm sát từ Viện kiểm sát được đặt ra như một nhu cầu tất yếu. Cần sớm thay đổi nội dung này để phù hợp về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
3. Vấn đề bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo
Kháng cáo là quyền được yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại bản án, quyết định chưa phát sinh hiệu lực. Như vậy, bản chất của quyền kháng cáo là quyền yêu cầu, thể hiện ý chí của người có quyền kháng cáo. Việc thay đổi nhận thức, thay đổi ý chí của người kháng cáo được pháp luật ghi nhận thông qua hoạt động bổ sung, thay đổi và rút kháng cáo.
3.1. Quy định về bổ sung, thay đổi kháng cáo
Việc bổ sung, thay đổi kháng cáo được quy định tại khoản 1 Điều 238 BLTTHS. Cụ thể như sau: “Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo… có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo…”.
– Thời điểm thực hiện quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị theo khoản 1 Điều 238 BLTTHS là “trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa”. Đây là một quy định không rõ ràng và cụ thể bởi lẽ, khoản thời gian kể từ khi phát sinh quyền kháng cáo cho tới trước khi thời điểm Hội đồng xét xử khai mạc phiên tòa xét xử đều có thể được xem là “trước khi bắt đầu”. Và thời gian Hội đồng xét xử nghị án, tuyên án cũng có thể xác định là tại phiên tòa. Nếu xác định như trên thì cũng đồng nghĩa với việc mọi thay đổi, bổ sung kháng cáo đều “không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo”. Như vậy thì sẽ làm hạn chế ý nghĩ của việc thực hiện quyền kháng cáo. Ngược lại, nếu cho phép người kháng cáo, kháng nghị thay đổi, bổ sung theo bất cứ hướng nào vào thời điểm “trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa” thì dễ dẫn đến sự tùy tiện, vô trách nhiệm của các chủ thể có quyền kháng cáo. Điều này sẽ gây khó khăn cho Tòa án cấp phúc thẩm trong việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị cho việc xét xử. Việc xác định cụ thể hai thời điểm này là một vấn đề rất quan trọng. Tuy vấn đề này đã được làm rõ thông qua các quy định tại Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP tại tiểu mục 7.1, mục 7, phần I nhưng tác giả cho rằng nên cụ thể hóa quy định trên ngay trong BLTTHS thay vì hướng dẫn bởi một Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao như hiện nay.
– Việc thay đổi, bổ sung nếu được thực hiện “trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa” thì “không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo”. Như thế nào là không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo? Hiện nay vì pháp luật chưa có một quy định cụ thể nên trong thực tiễn áp dụng còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau. Điều này có thể gây ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền, lợi ích của người kháng cáo, lẫn người bị kháng cáo.
3.2. Quy định về rút kháng cáo
Việc rút kháng cáo cũng được quy định tại Điều 238 BLTTHS. Theo đó: “Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo… có quyền… rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo… Trong trường hợp rút toàn bộ kháng cáo… tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm”. Như vậy, cũng tương tự như việc bổ sung, thay đổi kháng cáo, việc rút kháng cáo có thể được thực hiện vào thời gian “trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm”. Việc rút kháng cáo có thể gồm toàn bộ nội dung kháng cáo, hoặc một phần nội dung tùy vào sự đánh giá của người kháng cáo về tính đúng đắn của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm mà không ràng buộc bất cứ điều kiện nào về việc có làm xấu hay không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo.
Mặc dù việc đã được quy định và giải thích khá rõ, không có nhiều bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật nhưng qua phân tích, tác giả nhận thấy còn một vấn đề liên quan đến việc rút kháng cáo mà chưa được pháp luật TTHS giải quyết. Thứ nhất, theo Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP nếu rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị trước khi bắt đầu phiên tòa thì Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Như đã phân tích, thời điểm “trước khi bắt đầu phiên tòa” là khoảng thời gian có thể rơi vào trường hợp còn thời hạn kháng cáo hoặc đã hết thời hạn kháng cáo. Nếu vậy việc rút kháng cáo được thực hiện trước khi bắt đầu phiên tòa nhưng cụ thể hơn là rút trong thời hạn kháng cáo thì có cần thiết phải ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm (quyết định này sẽ công nhận hiệu lực thi hành của bản án, quyết định sơ thẩm) hay không hay chỉ cần hết thời hạn kháng cáo mà không có kháng cáo thì bản án, quyết định cấp sơ thẩm sẽ đương nhiên phát sinh hiệu lực theo quy định của pháp luật hiện hành. Vấn đề này luật cần xác định cụ thể. Thứ hai, pháp luật TTHS hiện hành quy định “Trường hợp rút một phần kháng cáo trước khi mở phiên tòa thì việc rút kháng cáo đó phải làm thành văn bản… Phần kháng cáo đã bị rút được coi như không có kháng cáo. Tòa án cấp phúc thẩm thông báo bằng văn bản về việc rút kháng cáo đó theo quy định của pháp luật. Trường hợp rút tại phiên tòa thì việc rút kháng cáo đó phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung đối với phần kháng cáo còn lại”. Theo tác giả quy định như trên là không hợp lý vì: nếu kháng cáo hợp pháp thì hết thời hạn kháng cáo thủ tục phúc thẩm đã phát sinh đối với những phần bị kháng cáo (không phải đợi đến khi mở phiên tòa thì mới phát sinh thủ tục phúc thẩm). Vì vậy, trong trường hợp rút một phần tại phiên tòa hay trước khi phiên tòa mở ra thì đều phải ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với phần đó chứ không thể xem như không có kháng cáo và càng không thể chấm dứt thủ tục phúc thẩm bằng một thông báo. Việc đình chỉ việc xét xử xem như cơ sở để công nhận hiệu lực thi hành của phần bản án sơ thẩm liên quan đến kháng cáo bị rút. Tất nhiên, nếu rút tại phiên tòa thì việc đình chỉ xét xử phúc thẩm có thể được quyết định ngay trong bản án phúc thẩm chứ không nhất thiết phải ra một quyết định riêng biệt.
4. Kiến nghị
Xuất phát từ những hạn chế trên cũng như để đáp ứng được yêu cầu của cuộc cải cách tư pháp đang được đặt ra ở Việt Nam, để quyền kháng cáo được thực hiện một cách hiệu quả, mang lại lợi ích cho người tham gia tố tụng cũng như đảm bảo tính nghiêm minh, chính xác của hoạt động xét xử thì giải pháp quan trọng nhất là phải hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về quyền kháng cáo.
4.1. Về chủ thể và phạm vi kháng cáo
– Cần có sự thống nhất giữa các điều luật khi quy định về phạm vi kháng cáo. Cụ thể là tại Điều 231 BLTTHS cũng như điểm e, khoản 2 Điều 51 BLTTHS về phạm vi kháng cáo của người bị hại, bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác, theo tác giả, cần xác định rõ phạm vi kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác là những phần bản án, quyết định sơ thẩm liên quan đến họ.
– Thay đổi quy định về phạm vi kháng cáo của nguyên đơn dân sự trong trường hợp nguyên đơn phải chịu những hậu quả trực tiếp từ hành vi phạm tội hoặc thay đổi cách hiểu về người bị hại: cơ quan, tổ chức, pháp nhân trong trường hợp bị tội phạm trực tiếp xâm hại vẫn có thể có tư cách tố tụng là người bị hại, khi có sự thay đổi này thì quy định hiện hành về phạm vi kháng cáo của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự là hợp lý. Theo quan điểm của tác giả thì thay đổi theo phương án hai là phù hợp nhất, bởi khi có sự nhận thức đúng đắn về người bị hại thì sẽ giải quyết được rất nhiều vấn đề khác ngoài quyền kháng cáo.
– Cần bổ sung nội dung tại khoản 3 Điều 249 BLTTHS theo hướng “…trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị, người bị hại, hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại, người bảo vệ quyền lợi của người bị hại yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản bộ luật hình sự về tội nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát, kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự…”.
4.2. Về thời hạn kháng cáo, kháng cáo quá hạn
– Cần bổ sung cách tính thời hạn kháng cáo đối với trường hợp bị cáo tham gia phiên tòa, nhưng trong thời gian nghị án thì bị cáo bỏ trốn. Theo quan điểm của tác giả thì thời hạn này nên được tính kể từ khi tòa tuyên án.
– Hướng dẫn cách xác định thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo khi ngày bắt đầu thời hạn này là ngày nghỉ, ngày lễ.
– Cụ thể hóa cách xác định thời hạn kháng cáo trong BLTTHS bằng một điều luật chứ không phải là một hướng dẫn trong Nghị quyết như hiện hành. Đồng thời, đặt lại tên Điều 234 BLTTHS là “Thời hạn kháng cáo, kháng nghị những bản án của Tòa án cấp sơ thẩm” hoặc giữ nguyên tên hiện tại nhưng lồng ghép cả nội dung thời hạn kháng cáo đối với quyết định của Tòa án vào điều luật này. Trong trường hợp lồng ghép nội dung kháng cáo đối với quyết định thì nên tách thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát thành một điều luật riêng đề tránh sự nhầm lẫn và hoàn thiện hơn về kỹ thuật lập pháp. Theo đó, Điều 234 BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng như sau:
1 – Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là mười lăm ngày, kể từ ngày tiếp theo của ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày tiếp theo của ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
2 – Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày tiếp theo của ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.
3 – Ngày kháng cáo được xác định như sau:
a- Trường hợp kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo là ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì.
b- Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị trại tạm giam, thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày Ban giám thị này nhận được đơn. Ban giám thị phải ghi rõ ngày nhận đơn và ký xác nhận.
c- Trường hợp người kháng cáo nộp đơn tại Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án nhận đơn. Trường hợp người kháng cáo trình bày trực tiếp với Tòa án cấp sơ thẩm thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án này lập biên bản về việc kháng cáo.”
– Cụ thể hóa hoặc pháp điển hóa nội dung “lý do chính đáng” đã được hướng dẫn tại Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP vào quy định của BLTTHS nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.
– Quy định thời hạn mà người có quyền kháng cáo có thể thực hiện quyền này khi không còn trở ngại khách quan. Có thể quy định theo hai hướng: “Thời hạn kháng cáo được tính lại kể từ khi trở ngại khách quan không còn nữa” hoặc “ngay sau khi hết cản trở phải làm đơn kháng cáo ngay” như Thông tư liên ngành số 01/1988.
– Thay đổi cụm từ “Hội đồng xét xử gồm ba thẩm phán” thành “hội đồng gồm ba thẩm phán để xem xét lý do kháng cáo quá hạn”.
– Quy định bắt buộc đại diện VKS cùng cấp phải tham gia vào phiên họp xét lý do kháng cáo quá hạn để thực hiện vai trò kiểm sát của mình. Đảm bảo tính chính xác trong việc chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo quá hạn của tòa án có thẩm quyền. Góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người kháng cáo, người liên quan đến kháng cáo.
Từ những kiến nghị trên, tác giả đề xuất sửa đổi Điều 235 BLTTHS như sau:
“1- Việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận nếu có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định. Việc kháng cáo phải được thực hiện trong vòng 15 ngày kể từ ngày lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan không còn nữa.
2- Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và chứng cứ, tài liệu, đồ vật kèm theo (nếu có), Tòa án cấp phúc thẩm thành lập hội đồng gồm ba thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn. Hội đồng xét kháng cáo quá hạn có quyền ra quyết định hoặc chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định.
3- Phiên họp xét kháng cáo quá hạn phải có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp. Kiểm sát viên phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc xét kháng cáo quá hạn.”
4.3. Về vấn đề bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo
– Cần có hướng dẫn rõ hơn như thế nào là “không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo” để có thể thuận tiện cho việc xét chấp nhận hay không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung kháng cáo.
– Tiến hành pháp điển hóa các nội dung của Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP về rút kháng cáo thành một điều luật trong BLTTHS. Đồng thời, chỉnh sửa, bổ sung một số nội dung có liên quan.
– Xác định rõ trách nhiệm phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những nội dung kháng cáo đã bị rút trong cả hai trường hợp là ở tại phiên tòa và trước khi mở phiên tòa. Trước khi mở phiên tòa, thẩm quyền ra quyết định thuộc về Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa (chỉ ra quyết định khi thời hạn kháng cáo đã hết). Tại phiên tòa, nội dung đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với những phần kháng cáo đã bị rút được thể hiện trong nội dung của bản án cấp phúc thẩm được thông qua tại thủ tục nghị án. Đồng thời, ghi nhận hiệu lực của những phần bản án sơ thẩm có liên quan đến kháng cáo đã bị rút tương ứng với từng trường hợp. Nếu rút trước khi mở phiên tòa thì hiệu lực của phần bản án sơ thẩm sẽ phát sinh khi có quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Nếu rút tại phiên tòa thì phát sinh khi có bản án của tòa án cấp phúc thẩm.
Từ những định hướng sửa đổi trên, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 238 BLTTHS như sau:
“Điều 238. Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị
1- Trước khi bắt đầu, tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị; rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo kháng nghị. Việc thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo chỉ được thực hiện trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
2- Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với vụ án mà người kháng cáo đã rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát đã rút toàn bộ kháng nghị. Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm trước khi mở phiên tòa (đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị) do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định, tại phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xé xử phúc thẩm.
3- Trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị trước khi mở phiên tòa mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo, kháng nghị đã rút.
4- Trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị tại phiên tòa phúc thẩm mà xét thấy không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị khác thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định về việc người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị và quyết định đình chỉ xét xử phần kháng cáo, kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm”./.
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Tố tụng hình sự 2003”
- Bàn về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 – ThS. Đinh Văn Đoàn
- Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 theo yêu cầu cải cách tư pháp và thi hành Hiến pháp 2013 – GS.TSKH. Đào Trí Úc
- Sửa đổi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 theo Hiến pháp 2013 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn – PGS.TS. Trần Ngọc Đức
- Những quy định mới của Hiến pháp 2013 về quyền bào chữa và việc hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh
- Triển khai quy định “Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” của Hiến pháp 2013 trong Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự – PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa & ThS. Vũ Thị Thúy
CHÚ THÍCH
* Giảng viên Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Ngô Thanh Xuyên, “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm”, Tạp chí Luật học số 4, năm 2012.
[2] Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, 2012, tr. 531
- Tác giả: ThS. Lê Thị Thùy Dương*
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03 (88)/2015 – 2015
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời