Mục lục
Khi nói đến biện pháp áp giải, dẫn giải với tư cách là biện pháp cưỡng chế, cần phân biệt với hoạt động với hoạt động giải người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người đang bị truy nã hoặc các trường hợp khác đến cơ quan có thẩm quyền. Thực tế, các hoạt động trên vẫn thường được gọi là “áp giải”, “dẫn giải” nhưng không được xem là biện pháp cưỡng chế áp giải, dẫn giải trong tố tụng hình sự.
Xem thêm bài viết về “Biện pháp cưỡng chế”
- Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá – Một số bất cập và hướng hoàn thiện – ThS. Nguyễn Nhật Khanh
- Các biện pháp cưỡng chế thi hành đối với tài sản là tiền theo quy định của Luật Thi hành án dân sự Việt Nam – TS. Trần Phương Thảo
- Biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự để thu hồi tài sản tham nhũng – TS. Nguyễn Đức Hạnh & ThS. Lê Văn Đông
1. Áp giải, dẫn giải là gì?
Trong BLTTHS năm 2003 áp giải và dẫn giải được quy định rải rác trong các Chương IV, X, XI. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 đã quy định dẫn giải, áp giải thành một chương riêng và được xem là biện pháp cưỡng chế. Căn cứ theo quy định tại các điểm k, l, khoản 1, Điều 4, Điều 127 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS năm 2015), thì:
Áp giải, dẫn giải là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng nhằm bảo đảm sự có mặt của người tham gia tố tụng theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Mặc dù, áp giải và dẫn giải đều là biện pháp cưỡng chế nhưng áp giải và giải dẫn có nhiều điểm khác biệt. Áp giải là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc hơn so với dẫn giải. Biện pháp áp giải là biện pháp dẫn giải có vũ trang, người bị áp giải “có thể” bị khóa tay, xích chân trong quá trình áp giải. Người thi hành quyết định dẫn giải không được khóa tay, xích chân người bị dẫn giải.
2. Đối tượng áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải
Đối tượng bị áp dụng biện pháp áp giải khác đối tượng bị áp dụng dẫn giải.
2.1. Đối tượng áp dụng biện pháp áp giải
Đối tượng bị áp giải có thể là:
– Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
– Người bị buộc tội. (Người bị buộc tội gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo).
2.2. Đối tượng áp dụng biện pháp dẫn giải
Đối tượng bị dẫn giải có thể là:
– Người làm chứng trong trường hợp họ không có mặt theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan.
– Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.
– Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.
Trong đó:
“Lý do bất khả kháng” được hiểu là lý do khách quan, xảy ra không phụ thuộc vào ý chí của bản thân họ, làm cho người được triệu tập không thể có mặt theo sự triệu tập, yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. Ví dụ: người được triệu tập chịu ảnh hưởng của các hiện tượng xuất phát từ thiên nhiên gây ra, như lũ lụt, hỏa hoạn, bão, động đất, sóng thần,… các hiện tượng xã hội như chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình công, cấm vận,…
“Trở ngại khách quan” được hiểu là những trở ngại, khó khăn do hoàn cảnh khách quan tác động, gây ra nhưng không có lỗi của họ, làm cho người được triệu tập không thể có mặt theo theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. Ví dụ: Người được triệu tập đi công tác xa, không kịp có mặt như thời gian yêu cầu.
2.3. Những người không được áp giải và dẫn giải
Không được áp giải và dẫn giải người già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của Cơ quan y tế.
3. Người có thẩm quyền quyết định và thi hành dẫn giải, áp giải
3.1. Thẩm quyền quyết định việc áp giải và dẫn giải
Các chủ thể có thẩm quyền quyết định dẫn giải, áp giải bao gồm:
- Điều tra viên.
- Thủ trưởng Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
- Kiểm sát viên.
- Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
- Hội đồng xét xử.
Quyết định áp giải, quyết định dẫn giải phải ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị áp giải, dẫn giải; thời gian, địa điểm người bị áp giải, dẫn giải phải có mặt và các nội dung quy định tại khoản 2, Điều 132 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
3.2. Cơ quan, người thi hành dẫn giải, áp giải
Cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân có thẩm quyền có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định áp giải, dẫn giải.
4. Trình tự, thủ tục tiến hành dẫn giải và áp giải
Quyết định áp giải và dẫn giải phải được lập thành văn bản.
Người thi hành quyết định áp giải, dẫn giải phải đọc, giải thích quyết định và lập biên bản về việc áp giải, dẫn giải theo quy định.
Nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch, cũng như bảo đảm an toàn trong quá trình áp giải và dẫn giải, pháp luật quy định việc áp giải và dẫn giải không được thực hiện vào ban đêm.
Việc áp giải, dẫn giải chỉ được thực hiện khi có quyết định của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và chỉ khi có quyết định áp giải, dẫn giải của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với người tham gia tố tụng thì mới được coi là hoạt động áp giải, dẫn giải. Nói cách khác, khi nói đến áp giải, dẫn giải với tư cách là biện pháp cưỡng chế, cần phân biệt với hoạt động với hoạt động giải người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người đang bị truy nã hoặc các trường hợp khác đến cơ quan có thẩm quyền. Trong thực tế, các hoạt động trên vẫn thường được gọi là “áp giải”, “dẫn giải” nhưng không được xem là biện pháp cưỡng chế áp giải và dẫn giải trong tố tụng hình sự.
Bạn hỏi – Luật sư trả lời
Câu hỏi 1
Vai trò của biện pháp áp giải và dẫn giải là gì?
Trả lời:
Với tư cách là một biện pháp cưỡng chế nên dẫn giải, áp giải cũng có đầy đủ các vai trò của một biện pháp cưỡng chế.
Thứ nhất, góp phần tăng cường pháp chế, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của người dân, đặc biệt là những người tham gia tố tụng có liên quan. Khiến cho họ phải luôn ý thức tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ của mình, bắt buộc phải có mặt theo giấy triệu tập khi có yêu cầu.
Thứ hai, giúp quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được diễn ra một cách nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, tiết kiệm thời gian, chi phí.
Câu hỏi 2
Các yếu tố để phân biệt áp giải và dẫn giải bao gồm những yếu tố nào?
Trả lời:
Để phân biệt áp giải và dẫn giải, có thể căn cứ vào các tiêu chí: Về khái niệm, về đối tượng áp dụng, các trường hợp áp dụng và tính nghiêm khắc của từng biện pháp.
Nếu bạn có câu hỏi hay thắc mắc về bài viết này, hãy để lại bình luận ở phần Comment nhé! Cảm ơn rất nhiều!
Xem thêm bài viết về “Bộ luật Tố tụng hình sự 2015”
- Một số vấn đề pháp lý về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – TS. Trần Ngọc Lan Trang & ThS. Nguyễn Phương Thảo
- Quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Một số điểm mới về chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 – TS. Võ Thị Kim Oanh & ThS. Trịnh Duy Thuyên
- Nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng và công khai theo Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. Nguyễn Trần Như Khuê
- Một số nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
Trả lời