Mục lục
Án tích tồn tại đối với người bị kết án bằng bản án buộc tội của Toà án. Án tích là một đặc điểm nhân thân gắn liền với người đã từng phạm tội và bị kết án. Vậy “Án tích” là gì?
Xem thêm bài viết về “Án tích“, “Xóa án tích”
- Quy định về “Đương nhiên xóa án tích” trong Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Xóa án tích theo quyết định của Tòa án theo quy định BLHS 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi bị kết án theo BLHS 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt theo quy định BLHS 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
1. Án tích là gì?
Trong luật hình sự Việt Nam, vấn đề án tích được đề cập đến kể từ khi BLHS năm 1985 có hiệu lực. Tuy nhiên, để hiểu án tích là gì thì cho đến nay trong các BLHS Việt Nam chưa có một điều luật nào đưa ra định nghĩa pháp lý về án tích, cũng như chưa có một công trình nghiên cứu chuyên khảo độc lập nào đề cập, nghiên cứu chế định án tích một cách toàn diện và có hệ thống.
Việc BLHS không quy định hoặc giải thích một cách cụ thể như thế nào được gọi là án tích hay nói cách khác án tích là gì? Đã dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm, đặc điểm, bản chất và ý nghĩa của án tích. Có thể kể đến một số quan điểm khác nhau trong giới khoa học luật hình sự về án tích như sau:
1.1. Quan điểm của PGS.TS Phạm Hồng Hải
Trích: “Một vài ý kiến về chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo quy định trong BLHS năm 1999”, tạp chí Tòa án nhân dân 2001 (số 04), tr.14 –
Quan điểm này đã chỉ ra được án tích là hậu quả pháp lý bất lợi chỉ áp dụng cho người phạm tội thông qua bản án kết tội của tòa án. Điểm bất lợi đó thể hiện ở chỗ nó sẽ được coi là một điều kiện để đánh giá mức độ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đó là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm, nếu như người đó tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích.
Tuy vậy, quan điểm này vẫn bộc lộ một số điểm chưa hợp lý, đó là không phải bất kỳ người phạm tội nào bị kết án cũng bị coi là có án tích. Trường hợp người bị kết án, nhưng được tòa án tuyên miễn hình phạt thì không bị coi là có án tích.
1.2. Quan điểm của Luật gia Nguyễn Thị Lan
Trích “Chế định xóa án tích trong luật hình sự Việt Nam”, Khóa luận tốt nghiệp năm 2003, khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
Quan điểm này đã chỉ ra được rằng chỉ có những người phạm tội mà đã bị tòa án kết án, thì mới có án tích. Tuy nhiên, quan điểm này cũng có những điểm chưa thật sự hợp lý. Đó là việc dùng thuật ngữ “dấu ấn” để chỉ hậu quả pháp lý của người bị kết án phải gánh chịu là chưa phù hợp, thiếu chuẩn xác, nó chưa đáng giá đúng bản chất pháp lý của án tích cũng như tính nghiêm khắc của hình phạt.
Và mặt khác, cũng 8 giống như quan điểm của PGS.TS Phạm Hồng Hải thì dùng thuật ngữ “người bị kết án” làm căn cứ là không chính xác, vì có nhiều trường hợp bị kết án nhưng không bị áp dụng hình phạt thì cũng không bị coi là có án tích.
1.3. Từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp)
Trích: Từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp), tr.14
Quan điểm này đã đã khái quát và làm rõ được bản chất của án tích cũng như các đặc điểm về mặt pháp lý của án tích. Án tích được áp dụng với những chủ thể đã bị kết án và bị áp dụng hình phạt về một tội phạm cụ thể nào đó mà chưa được xóa án tích. Bản chất của án tích là những đặc điểm xấu về mặt nhân thân của người phạm tội. Điều này được thể hiện một cách rõ ràng trong lý lịch tư pháp của họ với dòng chữ được ghi “có tiền án”.
Tuy nhiên, án tích nó không phải là một yếu tố tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định. Thời gian mang án tích dài hay ngắn là tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội gây ra. Một người khi đã mang án tích thì sẽ gặp rất nhiều bất lợi trong cuộc sống và những hoạt động mà họ tham gia.
1.4. Quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm
Trích “Sách chuyên khảo sau đại học những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự” năm 2005, khoa Luật đại học Quốc gia Hà Nội, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.829
Quan điểm này của GS.TSKH Lê Cảm coi án tích là giai đoạn cuối cùng của việc thực hiện trách nhiệm hình sự là chưa thực sự chính xác. Bởi, trách nhiệm hình sự được thể hiện ở quyết định hình phạt sẽ áp dụng đối với người phạm tội, trách nhiệm hình sự chỉ được chấm dứt khi người bị kết án thực hiện xong tất cả hình phạt và các nghĩa vụ cần thực hiện khi bản án được Tòa án ra phán quyết cuối cùng hoặc người đó được miễn hình phạt.
1.5. Quan điểm của GS, TS. Nguyễn Ngọc Hòa
Trích “Từ điển pháp luật hình sự”, Nhà xuất bản Tư Pháp, Hà Nội
Đây là quan điểm chỉ khá rõ bản chất của án tích cũng như các đặc điểm pháp lý của án tích. Quan điểm này chú trọng đến vấn đề đặc điểm nhân thân của người mang án tích. Trong thực tế, án tích là một đặc điểm xấu về nhân thân của người phạm tội, trong đó dấu hiệu “có tiền án” chính là đặc điểm để nhận diện 7 người đó có án tích hay không. Việc một người mang án tích có thể sẽ mang lại nhiều hậu quả pháp lý bất lợi cho người đó.
1.6. Quan điểm của ThS. Phạm Thị Dịu
Trích “Xóa án tích theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định”, Luận văn Thạc sĩ năm 2019
1.7. Quan điểm của ThS. Nguyễn Thị Như Quỳnh
Trích “Xóa án tích theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang”, Luận văn Thạc sĩ năm 2019
2. Đặc điểm của án tích
2.1. Về đối tượng
Án tích tồn tại đối với người bị kết án bằng bản án buộc tội của Toà án. Án tích là một đặc điểm nhân thân gắn liền với người đã từng phạm tội và bị kết án. Do đó, không có tội phạm thì không có án tích, chỉ có người phạm tội mới phải mang án tích.
2.2. Về phạm vi
Không phải bất cứ người phạm tội bị kết án nào cũng mang án tích. Đối tượng mang án tích chỉ là những người bị kết án bằng bản án có hiệu lực của Toà án và bị tuyên áp dụng hình phạt. Bởi người bị kết án nhưng được áp dụng các biện pháp tư pháp khác như đưa vào trường giáo dưỡng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn… theo quy định tại Điều 95 và Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 2015 hay biện pháp buộc công khai xin lỗi, bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 sẽ không phải chịu hậu quả pháp lý này. Đối với người được miễn trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng các biện pháp tư pháp thì thực tế án tích không tồn tại với họ.
2.3. Về thời điểm xuất hiện án tích:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Án tích xuất hiện từ khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật và những người phạm tội mới trong thời gian kháng cáo, kháng nghị, chờ xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm sẽ không trở thành đối tượng có án tích và sẽ không bị áp dụng những hậu quả pháp lý bất lợi do việc còn án tích như bị áp dụng các tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm khi phạm các tội mới.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Án tích chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian nhất định sau khi đã chấp hành xong hình phạt . Nhìn chung, các quan điểm này đều chưa hợp lý. Về bản chất, bản án kết tội của Toà sẽ làm xuất hiện án tích đối với người phạm tội ngay sau khi bản án đó được tuyên. Nếu thời gian kháng cáo, kháng nghị hoặc thời gian chấp hành hình phạt không được coi là thời gian mang án tích thì khi xét xử tội phạm mới sẽ không đánh giá đúng mức độ nguy hiểm của tội phạm mới thực hiện 10 trong thời gian này. Tóm lại, án tích xuất hiện ngay sau khi người phạm tội bị Toà án kết tội bằng một bản án buộc tội có hiệu lực pháp luật.
2.4. Về thời hạn tồn tại
Án tích chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Án tích là đặc điểm nhân thân xấu và việc mang án tích có thể mang lại những hậu quả pháp lý bất lợi cho người mang án tích nên không thể buộc họ phải vĩnh viễn mang án tích cho một tội danh. Do đó, án tích có thể được xoá sau một thời gian đủ để chứng tỏ người phạm tội đã “hoàn lương” – không còn nguy hiểm đối với xã hội nữa. Đây được coi là thời gian thử thách đối với người bị kết án chấp hành xong hình phạt. Thời hạn của án tích được bắt đầu từ khi bản án của Toà án được tuyên, kết thúc khi được xoá bỏ theo quy định của pháp luật.
3. Hậu quả pháp lý của Án tích
Trong vấn đề trách nhiệm pháp lý, điểm khác biệt giữa việc bị áp dụng chế tài hình sự và các chế tài khác ở chỗ: Nếu như, ở các vi phạm pháp luật khác thì người vi phạm sau khi chấp hành xong các chế tài xử lý thì mọi trách nhiệm chấm dứt. Còn đối với người vi phạm mà bị áp dụng chế tài hình sự thì sau khi chấp hành xong hình phạt trách nhiệm pháp lý họ vẫn chưa chấm dứt. Đó là họ vẫn bị coi là có án tích trong một khoảng thời gian nhất định. Điều này sẽ mang lại cho người bị kết án rất nhiều bất lợi. Đây chính là đặc điểm nỗi bật nhất để đánh giá mức độ nghiêm khắc nhất của hình phạt so với các biện pháp tư pháp khác.
Vậy sự bất lợi của án tích được thể hiện ở các phương diện sau:
3.1. Án tích thể hiện đặc điểm xấu về nhân thân
Án tích chính là đặc điểm xấu về nhân thân chứng tỏ một người có án tích đã từng bị kết án vì đã phạm tội.
Khi một người phạm tội đã bị tòa án áp dụng hình phạt thì hậu quả pháp lý mà họ phải gánh chịu không chỉ là chấp hành hình phạt đó mà còn bị coi là có án tích.
Một sự bất lợi rất lớn cho họ trong nhiều hoạt động của đời sống xã hội cũng như khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc hành vi phạm tội mới. Người mang án tích, trong lý lịch tư pháp cũng như các giấy tờ chứng thực về nhân thân sẽ bị ghi “có tiền án”, đồng thời cũng chỉ rõ tội phạm cũng như hình phạt mà họ phải gánh chịu. Khi đó, án tích như một “vết bẩn” trong lý lịch của người phạm tội, dẫn tới sự kỳ thị, những cái nhìn thiếu thiện cảm của xã hội. Điều này sẽ gây ra không ít khó khăn trong quá trình sinh hoạt, tham gia các hoạt động xã hội, làm cản trở con đường hoàn lương của người bị kết án.
Hơn nữa, để bảo đảm tính phòng ngừa tội phạm thì Nhà nước sẽ hạn chế bớt một số quyền của người đang bị mang án tích trong một số lĩnh vực nhất định.
Ví dụ: Điểm c Khoản 2 Điều 36 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định về điều kiện tuyển dụng công chức thì người chưa được xóa án tích thì không được đăng ký dự tuyển công chức.
3.2. Án tích là căn cứ để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm, định tội hoặc định khung tăng nặng
Việc mang án tích có thể là căn cứ để xác định hành vi phạm tội mới là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Từ đó, người mang án tích sẽ có thể bị áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt, tình tiết để tăng nặng trách nhiệm hình sự, hay yếu tố định tội.
Như vậy, dấu hiệu “chưa xóa án tích” – mang án tích chính là dấu hiệu quan trọng để xem xét hành vi phạm tội của người phạm tội có tái phạm hay tái phạm nguy hiểm hay không. Dấu hiệu tái phạm, tái phạm nguy hiểm này sẽ là căn cứ để xác định có áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 BLHS hay tình tiết định khung hình phạt hay không. Khi có dấu hiệu còn án tích và tái phạm, tái phạm nguy hiểm thì hành vi phạm tội thường bị áp dụng theo khung hình phạt tăng nặng.
3.3. Án tích thể hiện tính chất nghiêm trị của pháp luật hình sự đối với những người phạm tội
Bên cạnh chính sách “Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra”, đối với người phạm tội, việc mang án đã dẫn đến nhiều hậu quả bất lợi cả về mặt xã hội cũng như mặt pháp lý hình sự. Quy định này thể hiện rõ tính chất nghiêm trị của pháp luật hình sự đối với những người phạm tội, đặc biệt là đối với những trường hợp ngoan cố, tái phạm đã được khẳng định tại điểm c khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2015: “c) Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội”.
3.4. Án tích hạn chế quyền của một số người liên quan đến người bị kết án
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Mục II của Thông tư số 53/2012/TT-BCA ngày 15/8/2012 của Bộ Công an quy định tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân thì những người muốn dự tuyển vào ngành Công an nhân dân thì bản thân và gia đình phải tuyệt đối chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, phải chưa từng có tiền án. Nếu như người muốn dự tuyển vào ngành công an nhân dân mà có người thân (cha, mẹ) đã từng có tiền án, kể cả trường hợp đã được xóa án tích thì vẫn không được xét tuyển, sơ tuyển vào lực lượng Công an nhân dân./.
Trả lời