Mục lục
Vấn đề thông tin, tuyên truyền trong dự thảo luật trưng cầu ý dân ở Việt Nam
- Trưng cầu ý dân tại Việt Nam và bình luận, góp ý dự thảo Luật Trưng cầu ý dân 2015 – PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm
- Phạm vi và giới hạn của vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân – ThS. Đỗ Thanh Trung
- Trưng cầu ý dân ở Thái Lan: Nguyên lý tốt nhưng khó thực hiện – Narin Jareonsubphayanont
- Trưng cầu ý dân Thụy Điển – tham gia trực tiếp trong nền dân chủ đại diện – Bengt Lundell
- Giám sát tư pháp các cuộc trưng cầu ý dân ở Hoa Kỳ: Nguyên tắc quy trình chính trị và việc bảo đảm quyền con người – Steven D. Schwinn
- Trưng cầu ý dân của một số quốc gia trên thế giới – TS. Phan Nhật Thanh – ThS. Phạm Thị Phương Thảo
- Mối quan hệ giữa Trưng cầu ý dân với quyền con người, quyền công dân – TS. Đỗ Minh Khôi
- Bàn về đối tượng trưng cầu ý dân – PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp
- Bàn về “Phạm vi trưng cầu ý dân” – TS. Nguyễn Thị Thiện Trí
- Trưng cầu ý dân và dự liệu các tác động không mong muốn – TS. Phan Nhật Thanh
- Nhận định khả năng áp dụng pháp luật trưng cầu ý dân tại Việt Nam – TS. Nguyễn Văn Vân
TÓM TẮT
Mục đích của trưng cầu ý dân là muốn biết ý chí, nguyện vọng của người dân về những vấn đề quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, nếu không có thông tin đầy đủ, khách quan thì cử tri quyết định lá phiếu của mình sẽ không chính xác. Dự thảo Luật Trưng cầu ý dân có nhiều điều khoản liên quan đến vấn đề tuyên truyền thông tin và dành một chương riêng để đề cập việc tuyên truyền thông tin về những hoạt động chuẩn bị cho quá trình trưng cầu ý dân. Điều này xuất phát từ vai trò và ý nghĩa của hoạt động tuyên truyền, thông tin trong việc góp phần bảo đảm việc thực hiện trưng cầu ý dân được khách quan, hiệu quả và chính xác, nhất là trong thời đại công nghệ thông tin. Bài viết đề cập vai trò của thông tin, tuyên truyền trong hoạt động trưng cầu ý dân và những góp ý cụ thể đối với dự thảo Luật Trưng cầu ý dân liên quan đến thông tin, tuyên truyền.
TỪ KHÓA: Trưng cầu ý dân, Góp ý sửa đổi Luật, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam
Trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ trực tiếp quan trọng đã được quy định ở các bản Hiến pháp nhưng đến nay mới bắt đầu được đề cập nhiều trong đời sống chính trị – pháp lý ở nước ta. Đây là quyền rất quan trọng của một nhà nước dân chủ, để đảm bảo ý chí và nguyện vọng của toàn dân trong xã hội là cao nhất. Vì vậy, quyền này phải được thực hiện từ nhân dân, không bị gây khó khăn từ các nhóm lợi ích hay ngăn trở bởi các thực thể quyền lực khác. Ở Việt Nam, năm 2006, dự án Luật Trưng cầu ý dân đã có trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội từ khóa XI và Hội Luật gia Việt Nam đã soạn thảo dự luật này. Tuy nhiên, thời điểm đó Chính phủ đã đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội tạm chưa trình Quốc hội xem xét dự luật này. Tám năm sau, năm 2014, dự luật lại được tái khởi động và được đưa vào kế hoạch dự kiến trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, nhưng sau đó lại bị dừng lại cho đến nay. Năm 2015, vấn đề này tiếp tục được đưa vào chương trình xây dựng luật. Hiện nay đã có 167 trong số 214 quốc gia và vùng lãnh thổ có luật hoặc các quy định pháp lý về trưng cầu ý dân và trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng, quá trình dân chủ được mở rộng thì việc ban hành Luật Trưng cầu ý dân là rất cần thiết.[1]
Trong xã hội hiện đại, vấn đề thông tin, tuyên truyền đóng avai trò quan trọng trong việc đánh giá mức độ dân chủ, công bằng và sự ổn định của nền chính trị của một quốc gia.[2] Hơn nữa, việc công dân có được thông tin đầy đủ là điều kiện quan trọng để thực hiện và bảo vệ quyền con người, quyền công dân khác của mình. Quốc gia nào có sự trao đổi thông tin hai chiều giữa nhà nước và người dân càng nhiều, càng thực chất thì dân chủ được thực hiện càng hiệu quả và mang đến công bằng trong xã hội. Bên cạnh những tác động tích cực trên, trong một chừng mực nào đó, việc thông tin, tuyên truyền không đúng, không chính xác cũng tạo ra những ảnh hưởng bất lợi nhất định đối với sự ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước khi một số người lợi dụng tự do thông tin để đưa ra các thông tin thiếu tính chính xác, không trung thực để đạt được mục đích của mình. Bởi, người tiếp nhận thông tin bị ảnh hưởng theo những thông tin đã tiếp nhận.
Không phải ngẫu nhiên mà trong Dự thảo Luật Trưng cầu ý dân có nhiều điều khoản liên quan đến vấn đề tuyên truyền thông tin và một chương riêng được dành để đề cập việc tuyên truyền thông tin về những hoạt động chuẩn bị cho quá trình trưng cầu ý dân. Điều này xuất phát từ vai trò và ý nghĩa của hoạt động tuyên truyền, thông tin trong việc góp phần bảo đảm việc thực hiện trưng cầu ý dân được khách quan hiệu quả và chính xác. Bài viết này đề cập vai trò của thông tin, tuyên truyền trong hoạt động trưng cầu ý dân và những góp ý cụ thể đối với dự thảo Luật Trưng cầu ý dân liên quan đến thông tin, tuyên truyền.
1. Thông tin, tuyên truyền có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình và kết quả trưng cầu ý dân
Vấn đề thông tin, tuyên truyền đóng vai trò quan trọng trong quá trình vận động và hình thành dư luận của quá trình trưng cầu ý dân. Mục đích của trưng cầu ý dân là muốn biết ý chí, nguyện vọng của người dân về những vấn đề quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, nếu không có thông tin đầy đủ, khách quan, thì cử tri sẽ quyết định lá phiếu của mình không chính xác. Các cử tri không phải lúc nào cũng có khả năng hoặc đủ thông tin để đưa ra những quyết định hợp lý về vấn đề đang trưng cầu. Xu hướng này sẽ trở nên trầm trọng hơn trong trường hợp trưng cầu ý dân về những vấn đề phức tạp như thay đổi hiến pháp hoặc gia nhập các Điều ước quốc tế hoặc những vấn đề về cải cách thể chế, vì cử tri thường không am hiểu nhiều về các vấn đề này.
Một trong những vấn đề quan trọng của vận động trưng cầu ý dân là làm thế nào để thông tin, thường được cung cấp bởi truyền thông, có thể giúp cho việc hình thành ý kiến và thay đổi nhận thức của các cử tri về vấn đề chính trị trong các điều kiện cụ thể của cuộc vận động trưng cầu ý dân. Khi thực hiện trưng cầu ý dân, cử tri không chỉ được tiếp cận thông tin, mà thông tin cần đầy đủ, khách quan và trung lập, bởi vì, khi vấn đề trưng cầu ý dân được “định hướng thông tin” bởi nhu cầu chính trị của một phe nhóm, một đảng phái, thì lá phiếu của đa số cử tri sẽ bị dẫn dắt bởi thông tin đã có sẵn, được lặp đi lặp lại nhiều lần trên phương tiện truyền thông, hoặc bởi thái độ được xây dựng từ trước vì “những lợi ích đặc biệt” tác động lên các cử tri. Thậm chí, trưng cầu ý dân sẽ chỉ là một công cụ chính trị mà theo đó dân chúng chỉ đóng vai trò là người thực hiện.[3] Nếu tiến hành trưng cầu ý dân mà những thông tin về vấn đề trưng cầu ý dân quá ít, nội dung hời hợt, các nhận định còn cảm tính thì cũng không đạt được yêu cầu, hoặc đối với những vấn đề quá mới, các cử tri có thể phụ thuộc nhiều hơn vào thông tin mà họ đã nhận được trong suốt cuộc vận động và thông tin này sẽ chi phối quyết định của họ. Vì vậy, nếu thông tin không khách quan, trung lập thì ý nghĩa của cuộc trưng cần ý dân không còn nữa, nhân dân lại chỉ là lực lượng bị lợi dụng, cùng với đó là một khoản chi phí lớn từ chính nguồn thuế thu từ nhân dân lại phục vụ cho mưu cầu lợi ích không hẳn thuộc về nhân dân.
Trưng cầu ý dân chỉ có thể có ý nghĩa khi được tiến hành trong những điều kiện “hạ tầng” tối thiểu của một xã hội tự do thông tin. Vì vậy tiếp cận thông tin đối với hoạt động trưng cầu ý dân quan trọng trong thời đại thông tin ngày nay, khi mà internet có tiềm năng trở thành công cụ hùng mạnh nhất giúp cho tổ chức chính trị phát triển, và là một công cụ mà bất cứ công dân nào cũng có thể sử dụng, như lời nhà hoạt động chính trị Ed Schwartz trong cuốn sách NetActivism: Công dân sử dụng Internet như thế nào[4] đã khẳng định.
Cuộc cách mạng thông tin hiện nay cũng đã thay đổi các phương thức thông tin, tuyên truyền mà ngay cả các nhà lập pháp không thể nghĩ đến. Nhờ có cuộc cách mạng công nghệ thông tin, việc thông tin, tuyên truyền thể hiện rõ nét hơn, cụ thể: (1) con người có thể tiếp cận gần như mọi thông tin qua mạng toàn cầu mà không lệ thuộc truyền thông truyền thống (báo chí, sách) như trước; (2) con người có thể thu thập lượng thông tin đồ sộ một cách dễ dàng và gần như miễn phí, đặc biệt với sự hỗ trợ của những trang tìm kiếm (nổi tiếng nhất là www.google.com); (3) con người được tiếp cận các thông tin đa chiều (do ai cũng có thể đưa thông tin lên mạng) để có thể đưa ra quyết định đúng đắn nhất. (4) cộng đồng có thể truyền tin cho nhau một cách đồng thời và cực kỳ nhanh chóng thông qua các mạng xã hội (như Facebook, Twitter, Youtube…).
Tuy nhiên, việc lạm dụng sự phát triển của công nghệ thông tin, nhất là mạng xã hội đã khiến vi phạm các quy định pháp luật trở nên dễ dàng hơn, thông tin sai lệch có thể lan truyền rất nhanh qua mạng internet và rất khó phát hiện người vi phạm pháp luật vì họ ẩn danh thông qua mạng toàn cầu. Một số cá nhân, tổ chức lợi dụng truyền thông kích động nhằm mục đích xấu như làm người dân hiểu sai thông tin, hoặc gây nhiễu thông tin… điều này trở nên nguy hiểm hơn cho xã hội do tính lây lan rất nhanh, và hậu quả là ảnh hưởng đến sự ổn định của cả xã hội.[5] Hơn nữa, việc tìm kiếm thông tin trở nên quá dễ dàng tạo ra hiệu ứng thừa thông tin hoặc có quá nhiều thông tin nhưng không có thời gian để kiểm định tính chính xác.
Hiện nay các nước thực hiện trưng cầu ý dân đã khai thác khá tốt ưu thế của phương tiện truyền thông hiện đại trong vận động trưng cầu ý dân.[6] Phương tiện vận động, quảng cáo chính gồm có truyền hình, truyền thanh, báo chí và các phương tiện truyền thông trực tuyến cũng được sử dụng để tuyên truyền lợi ích của cuộc trưng cầu ý dân. Hoặc chính quyền lập ra các trang thông tin điện tử chính thức cho hoạt động trưng cầu ý dân, như trang thông tin điện tử www.referendum2014.ru trưng cầu ý dân về Crime, trang thông tin điện tử www.referendum.ie về trưng cầu ý dân ở Ireland… Ngoài ra các sách cầm tay giải thích cũng được in và phân phát cho mỗi hộ gia đình bỏ phiếu.
Có ý kiến cho rằng trưng cầu ý dân khó có hiệu quả mong muốn là do trình độ dân trí thấp. Thực tế, đây cũng chỉ là một trong nhiều lý do, nhưng không phải là không khắc phục được vì thật ra không ai thờ ơ với những quyết định đúng sai ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của mình và người thân. Điều quan trọng là cần cung cấp thông tin khách quan đến người dân vì khi người dân thiếu thông tin thì rất dễ nhầm lẫn trong lựa chọn (tán thành hay bác bỏ) của mình. Nhân dân phải được thông báo rộng rãi về các nội dung cần lấy ý kiến. Cần phát động cuộc trình bày, tranh luận công khai rộng rãi một cách dân chủ bình đẳng các quan điểm khác nhau về vấn đề cần trưng cầu. Người dân sẽ được trang bị, hiểu biết qua các nhà nghiên cứu chuyên sâu, từ đó họ có cơ sở sàng lọc thông tin để đưa ra quyết định.
Ở Việt Nam hiện nay, hạ tầng công nghệ thông tin và phương tiện truyền thông đã hoàn toàn đáp ứng với quá trình truyền thông, tuyên truyền hoạt động trưng cầu ý dân, vì vậy việc tuyên truyền có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc hình thành những nhận thức của công chúng đối với nội dung cần trưng cầu. Những thay đổi này đã đem lại cho người dân thông tin về chính quyền, về các hoạt động chính trị, và về những vấn đề trước đây không thể tìm hiểu được, hoặc khó tìm hiểu, đối với hầu hết người dân.
Như vậy, vấn đề thông tin, tuyên truyền trong xã hội hiện đại đặt ra nhu cầu cần có một hành lang pháp lý rõ ràng và vững chắc để người dân tham gia hoạt động trưng cầu ý dân được tiếp cận các thông tin một cách chính thức, khách quan, chứ không thể chỉ đọc, biết, nghe cùng lúc quá nhiều thông tin phi chính thức về cùng một vấn đề mà không biết rõ tính chính xác của thông tin.
2. Những nội dung trong Dự thảo Luật Trưng cầu ý dân liên quan đến thông tin, tuyên truyền
Với ý nghĩa nêu trên, trong Dự thảo Luật Trưng cầu ý dân gồm 53 điều thì đến 10 điều có nội dung liên quan đến tuyên truyền, tiếp cận thông tin như: quy định Nghị quyết của Quốc hội về trưng cầu ý dân được đăng trên Công báo, công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Nghị quyết được thông qua (Điều 13); quy định trong thời hạn 10 trước ngày bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân, Tổ Trưng cầu ý dân phải thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bỏ phiếu, địa điểm bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu trưng cầu ý dân bằng hình thức niêm yết, phát thanh và các phương tiện thông tin khác của địa phương và kết quả trưng cầu ý dân cả nước được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng và đăng trên Công báo (Điều 40 và Điều 53).
Riêng Chương V gồm 5 điều (từ Điều 34 đến Điều 38), quy định về mục đích, nguyên tắc tuyên truyền trưng cầu ý dân; nội dung tuyên truyền trưng cầu ý dân; thời điểm tuyên truyền trưng cầu ý dân; các hình thức tuyên truyền trưng cầu ý dân và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong tuyên truyền trưng cầu ý dân. Cụ thể:
2.1. Về mục đích, nguyên tắc tuyên truyền trưng cầu ý dân (Điều 34)
Việc tuyên truyền trưng cầu ý dân nhằm cung cấp thông tin đầy đủ, đúng đắn về vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân để cử tri hiểu rõ ý nghĩa, nội dung của vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cử tri trong việc tham gia trưng cầu ý dân; động viên, khuyến khích cử tri tham gia tích cực vào việc bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân. Việc tuyên truyền trưng cầu ý dân được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, khoa học, đúng pháp luật, bảo đảm thuận lợi cho cử tri và bảo đảm trận tự, an toàn xã hội.
Việc tuyên truyền trưng cầu ý dân có đặc thù riêng, khác với việc tuyên truyền, vận động trong bầu cử là người ứng cử được vận động cử tri trực tiếp bỏ phiếu cho mình. Vì vậy, quy định trên cần bổ sung thêm nguyên tắc: phương thức truyền thông và diễn đạt vấn đề trưng cầu ý dân của cơ quan có trách nhiệm phải đảm bảo tính trung lập. Nghiên cứu của các chuyên gia cho thấy rằng, cách thức vấn đề được nêu ra có thể có gợi ý đáng kể cho nhân dân bỏ phiếu như thế nào[7] nên việc soạn thảo và đưa ra vấn đề trưng cầu ý dân phải đảm bảo được tính trung lập với các lợi ích trong xã hội.
Trong việc tổ chức tuyên truyền trưng cầu ý dân, cần cấm lợi dụng quyền tự do thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền các nội dung trái pháp luật như phân biệt đối xử, gây thù hận về chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo, kêu gọi nắm quyền lực, thay đổi mạnh mẽ hệ thống hiến pháp và kêu gọi ly khai, cũng như kích động chiến tranh và các hình thức lợi dụng khác.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp để chấm dứt các hoạt động tuyên truyền trái phép, ngăn chặn việc in ấn, sản xuất các ấn phẩm băng đĩa không được phép và tịch thu các tài liệu trái phép, xác minh các tổ chức đã sản xuất các tài liệu, đối tượng kinh phí và phải thông tin kịp thời các vấn đề liên quan cho Ủy ban Trưng cầu ý dân tương ứng về các biện pháp đã được áp dụng. Nếu tổ chức phát thanh, truyền hình và tòa soạn báo vi phạm các quy định, Ủy ban Trưng cầu ý dân có liên quan có thể đề nghị các cơ quan hành pháp, tòa án, các cơ quan có chức năng thực hiện chính sách của Nhà nước đối với các phương tiện thông tin đại chúng để yêu cầu các biện pháp áp dụng chấm dứt việc vi phạm và áp dụng các chế tài xử lý tổ chức phát thanh, truyền hình và tòa soạn báo đó theo quy định của pháp luật.
Đại diện phương tiện thông tin đại chúng, quan sát viên nước ngoài có quyền có mặt ở địa điểm của Ủy ban Trưng cầu ý dân vào thời điểm họ kiểm phiếu trưng cầu ý dân, kiểm kết quả bầu, lập biên bản về số phiếu bầu, kết quả bầu hoặc vào lúc kiểm lại phiếu.
2.2. Về nội dung tuyên truyền trưng cầu ý dân (Điều 35)
Nội dung trưng cầu ý dân cần bao gồm các thông tin đa dạng cả về mặt ủng hộ và chống đối đối với vấn đề đưa ra trưng cầu và làm rõ các vấn đề đang được đưa ra để trưng cầu. Cách tốt nhất để làm rõ vấn đề trưng cầu ý dân là nên đề cập cả những lợi thế, lợi ích, tác động tích cực cũng như những mặt hạn chế và tác động tiêu cực nếu giải pháp đưa ra được chấp thuận. Chương trình, nội dung tuyên truyền phải đưa ra được những cơ sở khoa học và chứng minh có tính thuyết phục để người tiếp nhận có thể dễ dàng đánh giá, so sánh, cân nhắc và đưa ra được quyết định của mình. Đối với chiến dịch tuyên truyền ủng hộ một vấn đề, nên tránh đưa ra những câu khẩu hiệu có tính khẳng định như “đồng ý”, “tán thành” mà thay bằng sự khích lệ, “nếu các bạn còn nghi ngờ, hãy hỏi” hoặc “hãy tìm hiểu”.
2.3. Về thời gian tuyên truyền trưng cầu ý dân (Điều 36)
Thời gian tuyên truyền trưng cầu ý dân được bắt đầu từ ngày hoàn thành việc thành lập các tổ chức phụ trách trưng cầu ý dân cho đến khi kết thúc việc bỏ phiếu biểu quyết trưng cầu ý dân.
Đây là quy định phù hợp bởi công tác tuyên truyền trưng cầu ý dân do các tổ chức phụ trách trưng cầu ý dân thực hiện, do đó sau khi thành lập tất cả các tổ chức trưng cầu ý dân thì tiến hành tuyên truyền trưng cầu ý dân (chậm nhất 40 ngày trước ngày bỏ phiếu thành lập Tổ Trưng cầu ý dân là tổ chức phụ trách trưng cầu ý dân thấp nhất). Tuy nhiên cần bổ sung thêm nội dung: trong vòng 3 ngày trước và trong ngày trưng cầu ý dân, việc công bố kết quả thăm dò dư luận, dự báo về các kết quả trưng cầu ý dân hoặc các nghiên cứu khác trên các phương tiện thông tin đại chúng bị nghiêm cấm nhằm đảm bảo tính khách quan của cuộc trưng cầu ý dân.
2.4. Về các hình thức tuyên truyền trưng cầu ý dân (Điều 37)
Phát hành các ấn phẩm, tài liệu chính thức của Ủy ban Trưng cầu ý dân trung ương về vấn đề trưng cầu ý dân cho các cơ quan, tổ chức; tuyên truyền trưng cầu ý dân trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật; thông qua hội nghị cử tri do Ủy ban Trưng cầu ý dân cấp xã tổ chức. Quy định này chưa xác định tài liệu tuyên truyền chính thức là gì, là tài liệu in ấn, ghi âm, ghi hình hoặc các tài liệu khác chứa đựng nội dung tuyên truyền về bầu cử, tuyên truyền về các vấn đề trưng cầu ý dân được thiết kế nhằm phổ biến rộng rãi cho công chúng trong quá trình vận động bầu cử hoặc diễn ra cuộc trưng cầu ý dân.
2.5. Về trách nhiệm cơ quan, tổ chức trong tuyên truyền trưng cầu ý dân (Điều 38)
Điều 38 của Dự thảo Luật Trưng cầu ý dân quy định trách nhiệm của Ủy ban Trưng cầu ý dân các cấp; các cơ quan báo chí; cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và chính quyền địa phương các cấp.
Quy định này trong một chừng mực nào đó chưa khách quan, vì các cơ quan được liệt kê trong Điều 38 đều là những cơ quan trong hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước ở nước ta nên xu hướng chung các cơ quan này sẽ tuyên truyền những vấn đề có lợi hoặc định hướng dư luận theo ý chí của nhà nước. Thực tiễn khi các cơ quan nhà nước ủng hộ một kết quả cụ thể của trưng cầu ý dân, thì các cơ quan này sẽ cố gắng diễn đạt vấn đề một cách có tính toán để khuyến khích nhân dân bỏ phiếu theo những cách có lợi cho mình. Hơn nữa, ngay cả khi các cơ quan nhà nước không cố gắng làm như vậy, các đối thủ, hoặc các lực lượng ủng hộ xu hướng ngược lại cũng có thể cho rằng chính quyền đang tìm cách thao túng vấn đề, điều này sẽ hủy hoại tính chính đáng của cuộc trưng cầu ý dân. Ở Anh, chính phủ có trách nhiệm soạn thảo vấn đề trưng cầu ý dân, nhưng Ủy ban Bầu cử độc lập được yêu cầu bình luận công khai về tính dễ hiểu của vấn đề. Ủy ban giới thiệu cho công chúng một loạt các tiêu chí mà theo đó cuộc trưng cầu ý dân sẽ được thực hiện. Nếu bình luận của Ủy ban có tính chỉ trích mạnh, thì việc Chính phủ tảng lờ những bình luận này cũng gặp phải khó khăn về mặt chính trị.[8]
Vì vậy, cần thành lập một Ủy ban Tuyên truyền thông tin độc lập, bao gồm đại diện nhiều thành phần, để vận động trưng cầu ý dân không bị lạm dụng và có tác động tích cực trong xã hội. Ủy ban Tuyên truyền thông tin trưng cầu ý dân là một cơ quan hoạt động độc lập, được thiết lập bởi đạo luật trưng cầu ý dân. Chức năng cơ bản của Ủy ban là giải thích những vấn đề thuộc về trưng cầu ý dân, thúc đẩy nhận thức công chúng về vấn đề được trưng cầu và khuyến khích toàn bộ cử tri bỏ phiếu, thông báo chi tiết về thông tin vận động, hoạt động để nâng cao hiểu biết của cử tri.
Ủy ban Tuyên truyền có nhiệm vụ sau: loại bỏ những nhầm lẫn, làm cho các vấn đề trở nên rõ ràng và khuyến khích người dân bỏ phiếu; trình bày vấn đề được trưng cầu với một sự độc lập, trung tính và giải thích rõ ràng những gì mà người dân yêu cầu; không đưa ra lập luận ủng hộ hay phản đối mà chỉ giải thích chi tiết để dựa vào đó cử tri sẽ ra quyết định vào ngày bỏ phiếu.
Hơn nữa, Điều 38 chưa có nội dung về hình thức tuyên truyền của công dân Việt Nam, của các tổ chức, hiệp hội nhằm ủng hộ hoặc cản trở nội dung trưng cầu ý dân cũng như nhằm khuyến khích người tham gia trưng cầu ý dân bỏ phiếu hoặc không bỏ phiếu tại cuộc trưng cầu ý dân. Trong bối cảnh mạng xã hội ở nước ta đang phát triển mạnh (với 25 triệu người sử dụng Facebook),[9] chúng ta không thể thờ ơ với một phương tiện truyền thông xã hội đang rất hiệu quả, đưa thông tin nhanh, trực tiếp đến từng thành viên.
Kết luận
Trong xã hội thông tin ngày nay, vấn đề thông tin, tuyên truyền trong các cuộc trưng cầu ý dân có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến các kết quả trưng cầu ý dân. Vấn đề này cũng được đưa vào Dự thảo Luật Trưng cầu ý dân, tuy nhiên các quy định trong Dự thảo vẫn chưa thể đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Vì vậy, cần bổ sung các nội dung sau: các nguyên tắc, nội dung, thời hạn về thông tin, truyền thông; quy định Ủy ban Tuyên truyền thông tin độc lập khi tổ chức trưng cầu ý dân; quy định rõ về hình thức tuyên truyền của công dân Việt Nam trên các diễn đàn, mạng xã hội.
CHÚ THÍCH
[1] Bài viết “Luật trưng cầu ý dân gây nhiều e ngại“.
[2] Michael Schudson, Sức mạnh của tin tức truyền thông, Nxb. Chính trị quốc gia, 2003, tr. 297.
[3] Constitution Committee, Referendums in the United Kingdom, http://www.publications.parliament.uk/pa/ld200910/ldselect/ldconst/99/9904.htm#a15 (truy cập ngày 21/5/2015).
[4].http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/doc_usgovernment_vii.html.
[5] Tiếp cận thông tin: Pháp luật và thực tiễn thế giới và ở Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, tr. 684. Trung tâm nghiên cứu quyền con người – quyền công dân và Trung tâm Luật So sánh thuộc Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
[6] Scotland’s Independence Referendum: Prime Minister David Cameron’s Propaganda Campaign to Boost the “No” Vote.
http://www.globalresearch.ca/scotlands-independence-referendum-prime-minister-david-camerons-propaganda-campaign-to-boost-the-no-vote/5390378.
[7] Trịnh Thị Xuyến, “Kinh nghiệm vận động trưng cầu ý dân ở một số nước trên thế giới”, Tạp chí Mặt trận, số 80, tháng 6/2010.
[8] Issues Relating to the Referendum Mechanism, an Electoran Processes Team Working Paper, International Idea, September 2004,.http://www.idea.int/elections/dd/upload/Working_Paper_Referendums_040913.pdf (Truy cập ngày 28/4/2015).
[9].http://www.thesaigontimes.vn/115106/Viet-Nam-co-25-trieu-nguoi-su-dung-Facebook.html (truy cập ngày 15.8.2015).
Tác giả: Thái Thị Tuyết Dung – TS, Khoa Luật Hành chính – Nhà nước, trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 07/2015 (92) – 2015, Trang 56-61
Like fanpage Luật sư Online tại https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời