Khái quát về các quyền dân sự của công dân trong lịch sử lập hiến Việt Nam và những đánh giá, đề xuất liên quan đến quyền dân sự: Bài viết chỉ ra những điểm mới trong cách thức quy định và thực thi các quyền dân sự của công dân qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992….
- Bình luận về Quyền lập hiến và quy trình lập hiến theo Hiến pháp 2013 – ThS. Lưu Đức Quang
- Hiến pháp 2013 về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân – TS. Phan Nhật Thanh
- Điểm mới của Hiến pháp 2013 về “quyền con người” và “quyền công dân” – TS. Nguyễn Mạnh Hùng & ThS. Phan Nguyễn Phương Thảo
- Quyền được miễn trừ nghĩa vụ khai báo trong TTHS – Quyền cơ bản của công dân, quyền của những người tham gia tố tụng – TS. Lê Nguyên Thanh
- Mối quan hệ: Trưng cầu ý dân với quyền con người, quyền công dân – TS. Đỗ Minh Khôi
- Các quy định về quyền tự do dân chủ của công dân trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và kiến nghị – ThS. Vũ Thư
- Bảo vệ quyền đảm bảo bí mật, an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của công dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam – ThS. Nguyễn Thị Ánh Hồng
TỪ KHÓA: Quyền dân sự, Quyền công dân,
TÓM TẮT
Khái quát về các quyền dân sự của công dân trong lịch sử lập hiến Việt Nam. Tác giả đã nêu khái quát về các quyền dân sự của công dân trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung) để thấy được sự kế thừa và phát triển của các quyền dân sự trong lịch sử lập hiến Việt Nam. Thông qua đó, tác giả đã chỉ ra những điểm mới trong cách thức quy định và thực thi các quyền dân sự của công dân qua các bản Hiến pháp. Sau đó, tác giả đã nêu ra đánh giá, đề xuất liên quan đến việc quy định và thực thi các quyền dân sự theo quy định của Hiến pháp hiện hành.
Đặt vấn đề
Quyền dân sự bao gồm một lớp các quyền nhằm bảo vệ tự do cá nhân từ hành động không có cơ sở của nhà nước mà không bị phân biệt đối xử. Quyền dân sự bao gồm việc bảo đảm toàn vẹn về thể chất và an toàn của người dân; bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử trên cơ sở khuyết tật về thể chất hoặc tâm thần, giới tính, tôn giáo, chủng tộc, nguồn gốc quốc gia, tuổi tác, định hướng tình dục hoặc giới tính; và quyền cá nhân như quyền riêng tư, các quyền tự do của tư tưởng và lương tâm, ngôn luận, tôn giáo, báo chí và chuyển động. Quyền dân sự tạo ra cho cá nhân một không gian sinh tồn trong cuộc sống đời thường chống lại sự can thiệp vô căn cứ của nhà nước. Các quyền dân sự gắn liền với phạm trù tự do cá nhân – một phạm trù mà ở góc độ nhất định, mang tính đối trọng với phạm trù quyền lực nhà nước. Mục đích của thế hệ quyền này về cơ bản là để giới hạn, ngăn chặn sự tùy tiện và lạm quyền từ phía nhà nước xâm hại đến cuộc sống tự do của cá nhân[1]. Xét một cách tổng quát, những lý thuyết chính trị tự do của các nhà tư tưởng như J. Locke, J. J. Rousseau,… được giai cấp tư sản vận dụng để đấu tranh cho một chính quyền hợp hiến, có chung một quan điểm là con người sinh ra được tự do. Hay nói cách khác, họ quan niệm tự do là bản tính vốn có của con người. Từ tự do đã sinh ra khế ước xã hội. Chính vì những điểm này mà lý thuyết của họ được vận dụng để đấu tranh cho sự thiết lập hiến pháp. Chiến thắng đầu tiên và lớn nhất của chủ nghĩa tự do là ở Anh. Những điều khoản của Dự luật về các quyền năm 1689 cho thấy cách mạng Anh không chỉ nhằm bảo vệ quyền tài sản mà còn thiết lập những quyền tự do, mà những người theo chủ nghĩa tự do tin là cần thiết đối với nhân phẩm và giá trị đạo lý của con người. Những quyền của con người được nêu ra trong Dự luật về các quyền của Anh được dần dần công bố rộng rãi, đặc biệt trong Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền của Pháp 1789. Như vậy, hiến pháp – một giải pháp chính trị – về mặt hình thức được đặt trên cơ sở nhận thức nhân bản là con người sinh ra vốn tự do. Do nhu cầu đảm bảo tự do vốn có của con người mà phải ấn định chính quyền trong một bản văn gọi là hiến pháp để giới hạn chính quyền và như ước vọng của những người theo chủ nghĩa lập hiến, chính quyền không can thiệp vào các quyền tự do vốn có của con người. Bởi vì, một trong những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa lập hiến là việc vạch ra giới hạn giữa quyền lực nhà nước và quyền của công dân theo công thức là nhà nước thì không được can thiệp vào các lĩnh vực thuộc các quyền tự do của công dân. Vì thế, bên cạnh việc ấn định chính quyền trong hiến pháp, thì để đảm bảo các quyền tự do của con người, hiến pháp cũng phải ghi nhận các quyền tự do cho con người – coi như là một giới hạn – mà chính quyền không được xâm phạm vào lãnh địa cấm đó[2]. Các quyền dân sự, chính trị được chính thức pháp điển hóa trong luật pháp quốc tế kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đặc biệt với việc Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966.
1. Khái quát về các quyền dân sự của công dân trong lịch sử lập hiến Việt Nam
1.1. Quyền dân sự của công dân trong Hiến pháp 1946
Hiến pháp 1946 quy định các quyền của công dân trong mục B chương 2 có 16 điều (từ Điều 6 đến Điều 21) với tổng cộng 25 quyền thì đã có đến 15 quyền dân sự (từ Điều 6 đến Điều 21), cụ thể: quyền bình đẳng của công dân về mọi phương diện (Điều 6); quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 7); quyền của công dân thiểu số được giúp đỡ (Điều 8); quyền bình đẳng nam nữ (Điều 9); quyền tự do ngôn luận, quyền tự do xuất bản, quyền tự do tổ chức, quyền tự do hội họp, quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do cư trú, quyền tự do đi lại trong nước, quyền ra nước ngoài (Điều 10); quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, quyền bất khả xâm phạm về thư tín (Điều 11) và quyền tư hữu về tài sản (Điều 12). Nghiên cứu các quyền dân sự của công dân được quy định trong Hiến pháp năm 1946 có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Một là, về cách thức tiếp cận và quy định các quyền dân sự: trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp 1946 có cách tiếp cận các quyền dân sự giống với Hiến pháp đa số các nước và phù hợp với quan điểm của cộng đồng quốc tế về quyền con người (mặc dù tại thời điểm ban hành Hiến pháp 1946 thì chưa có Bộ Luật quốc tế về quyền con người)[3]:
– Hiến pháp 1946 rất đề cao các quyền dân sự của công dân (thiết kế ở vị trí đầu tiên và chiếm ưu thế so với các quyền chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội – 15/25 quyền).
– Hiến pháp năm 1946 quy định khá đầy đủ các quyền dân sự cơ bản của công dân với nhiều quyền mang tính dân chủ, tiến bộ và nhân văn sâu sắc như: quyền bình đẳng của công dân về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá (Điều 6); quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới (Điều 9); đặc biệt quyền tư hữu về tài sản (Điều 12).
– Hiến pháp năm 1946 quy định các quyền dân sự rất ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu và cách quy định theo hướng mặc nhiên thừa nhận quyền như là các quyền tự nhiên vốn có, chứ không phải sự ban phát của Nhà nước cho công dân nên tất cả các quy định về quyền dân sự không có cụm từ “theo quy định của pháp luật”.
Hai là, về việc bảo đảm thực thi các quyền dân sự: các quyền dân sự của công dân không chỉ được ghi nhận mà còn được đảm bảo thực hiện bằng giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp. Hiến pháp 1946 do một Quốc hội lập hiến thông qua. Hiến pháp 1946 cũng thể hiện tinh thần tối cao của một Hiến pháp dân chủ ở chỗ, việc sửa đổi Hiến pháp cũng phải được quyết định bởi nhân dân (Điều 70).
1.2. Quyền dân sự của công dân trong Hiến pháp 1959
Hiến pháp 1959 quy định “Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân” trong chương III, bao gồm 21 điều (từ Điều 22 đến Điều 42) với tổng cộng 27 quyền trong đó có 14 quyền dân sự, cụ thể: quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 22); quyền bình đẳng nam nữ (Điều 24); quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền tự do lập hội, quyền tự do hội họp, quyền biểu tình (Điều 25); quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo (Điều 26); quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 27); quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, quyền bất khả xâm phạm về thư tín, quyền tự do cư trú, quyền tự do đi lại (Điều 28); quyền khiếu nại và tố cáo, quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của nhân viên nhà nước (Điều 29). Nghiên cứu các quyền dân sự của công dân được quy định trong Hiến pháp năm 1959 có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Một là, về cách thức tiếp cận và quy định các quyền dân sự:
i) Hiến pháp 1959 đặt các quyền chính trị lên trước các quyền dân sự của công dân (Điều 23 quy định quyền bầu cử và ứng cử, Điều 24 đến Điều 29 quy định các quyền dân sự) và gia tăng số lượng các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (Hiến pháp 1959 quy định thêm 11 quyền mới so với Hiến pháp 1946 trong đó có 8 quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa; chỉ có 3 quyền về dân sự).
ii) Hiến pháp 1959 quy định thêm 3 quyền dân sự mới: quyền biểu tình (Điều 25); quyền khiếu nại và tố cáo, quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của nhân viên nhà nước (Điều 29).
iii) Hiến pháp 1959 không quy định quyền ra nước ngoài của công dân.
iv) Trong số 7 điều quy định các quyền dân sự của công dân trong Hiến pháp 1959 thì có 2 điều (Điều 24 và 25) quy định những bảo đảm kèm theo dưới dạng trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà nước. Ví dụ, Điều 25 Hiến pháp 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình” đồng thời khẳng định “Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó”. Đây không đơn thuần chỉ là vấn đề kỹ thuật lập hiến mà quan trọng hơn là sự nhận thức đúng đắn và thái độ quan tâm của nhà nước về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là một yêu cầu rất quan trọng trong nhà nước pháp quyền. Bởi vì, trong nhà nước pháp quyền mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là mối quan hệ bình đẳng qua lại hai chiều: quyền của công dân là nghĩa vụ của nhà nước và ngược lại. Hiến pháp đã ghi nhận cho công dân các quyền thì nhà nước phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho các quyền ấy được thực thi trên thực tế.
v) Hầu hết các quyền dân sự quan trọng của công dân (quyền sở hữu đối với tài sản; quyền thừa kế tài sản; quyền được bồi thường khi Nhà nước trưng dụng, trưng thu, trưng mua tài sản của công dân…) không được Hiến pháp năm 1959 quy định trong Chương III “Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân” mà quy định rải rác trong Chương II “Chế độ kinh tế – xã hội”. Chương III “Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân” của Hiến pháp 1959 chủ yếu quy định về các quyền chính trị, văn hóa, xã hội. Đặc biệt, quyền sở hữu của công dân đối với tài sản theo quy định của Hiến pháp 1959 không những không được quy định trực tiếp trong chương “Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân” mà còn quy định theo hướng hạn chế tối đa các quyền dân sự quan trọng này[4]. Theo đó, Điều 18 quy định “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác”.
Hai là, về việc bảo đảm thực thi các quyền dân sự: Hiến pháp 1959 không kế thừa quyền phúc quyết về Hiến pháp của nhân dân trong Hiến pháp 1946, Điều 50 Hiến pháp 1959 quy định Quốc hội vừa có quyền “Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp” vừa có quyền “Làm pháp luật”. Như vậy, kể từ Hiến pháp 1959 đã thừa nhận quyền lập hiến (thông qua, sửa đổi và bổ sung Hiến pháp) chỉ thuộc về Quốc hội, không còn sự phân biệt giữa Quốc hội lập hiến và Quốc hội lập pháp và đặt Quốc hội cao hơn Hiến pháp. Vì thế, tính đảm bảo thực hiện các quyền dân sự nói riêng và các quyền công dân nói chung trong bản Hiến pháp này là không cao.
1.3. Quyền dân sự của công dân trong Hiến pháp 1980
Hiến pháp 1980 quy định “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” trong chương V, bao gồm 29 điều (từ Điều 53 đến Điều 81) với tổng cộng 43 quyền trong đó có 19 quyền dân sự, cụ thể: quyền có quốc tịch (Điều 53); quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 55); quyền bình đẳng nam nữ (Điều 63); quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền tự do lập hội, quyền tự do hội họp, quyền biểu tình (Điều 67); quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo (Điều 68); quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 69); quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự nhân phẩm (Điều 70); quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền được bảo đảm bí mật về thư tín, quyền được bảo đảm bí mật về điện thoại, quyền được bảo đảm bí mật về điện tín, quyền tự do cư trú, quyền tự do đi lại (Điều 71); quyền khiếu nại và tố cáo, quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của nhân viên nhà nước (Điều 73). Nghiên cứu các quyền dân sự của công dân được quy định trong Hiến pháp năm 1959 có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Một là, về cách thức tiếp cận và quy định các quyền dân sự:
i) Hiến pháp 1980 có xu hướng đề cao các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa hơn các quyền dân sự. Hiến pháp 1980 đặt các quyền chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa lên trước các quyền dân sự của công dân (Điều 56 và 57 quy định quyền chính trị; Điều 58 đến Điều 66 quy định các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; Điều 67 đến Điều 71 quy định các quyền dân sự) và gia tăng số lượng các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (Hiến pháp 1980 quy định thêm 12 quyền mới so với Hiến pháp 1959 trong đó có 7 quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa; chỉ có 4 quyền về dân sự và 1 quyền chính trị).
ii) Hiến pháp 1980 quy định thêm 4 quyền dân sự mới: quyền có quốc tịch (Điều 53); quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự nhân phẩm (Điều 70); quyền được bảo đảm bí mật về điện thoại, quyền được bảo đảm bí mật về điện tín (Điều 71).
iii) Hiến pháp năm 1980 không kế thừa một số quyền dân sự trong Hiến pháp 1946 như: tất cả công dân đều ngang quyền về mọi phương diện, quyền tự do xuất bản, quyền tự do đi ra nước ngoài.
iv) Hiến pháp năm 1980 tiếp tục thừa nhận quyền khiếu nại, tố cáo của công dân theo hướng mở rộng hơn đối với mọi hành vi trái pháp luật không chỉ của cơ quan nhà nước, mà còn của các tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó. Hiến pháp năm 1980 cũng khẳng định: “Mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường” (Điều 73). Đây là cơ sở hiến định rất quan trọng để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, trong đó có các quyền dân sự của công dân, là cơ sở hiến định để ban hành Luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
v) Hiến pháp 1980 khi quy định về các quyền dân sự của công dân thì có xu hướng nhấn mạnh đến việc bảo vệ lợi ích của nhà nước hơn là đề cao tự do cá nhân. Ví dụ, Điều 67 Hiến pháp 1980 khi quy định về các quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền tự do lập hội, quyền tự do hội họp, quyền biểu tình đồng thời nhấn mạnh “Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của nhà nước và của nhân dân”; Điều 68 Hiến pháp 1980 khi quy định về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo đồng thời nhấn mạnh “Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của nhà nước”.
vi) Hiến pháp 1980 tiếp tục quy định quyền dân sự quan trọng là quyền sở hữu về tài sản trong chương II (chương Chế độ kinh tế) theo đó, Điều 27 Hiến pháp 1980 quy định “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ”. Do quan niệm giản đơn, giáo điều và cứng nhắc về CNXH là thuần nhất về chế độ sở hữu (sở hữu toàn dân và tập thể), không thừa nhận sở hữu tư nhân nên các biện pháp quốc hữu hóa tài sản của địa chủ phong kiến và tư sản mại bản cũng như việc trưng thu, trưng mua, trưng dụng tài sản của cá nhân hoặc tập thể được quy định ở các Điều 25 và Điều 28 Hiến pháp 1980. Đây chính là hạn chế lớn nhất của Hiến pháp năm 1980 về các quyền dân sự của công dân.
vii) Cách quy định về các quyền dân sự trong Hiến pháp năm 1980 dài dòng, nặng về tuyên bố, tuyên ngôn, ít mang tính quy phạm và nhất là nhiều quyền dân sự của công dân không có hiệu lực trực tiếp, phụ thuộc vào sự “ban phát của nhà nước”, cụ thể hơn là phụ thuộc vào các cơ quan nhà nước ban hành các văn bản pháp luật cụ thể về các quyền này với công thức chung ở cuối các quyền là “theo quy định của pháp luật”, trong khi UBND xã, phường, thị trấn theo quy định của Hiến pháp cũng có quyền ban hành văn bản pháp luật (quyết định và chỉ thị). Chính vì vậy, các quyền dân sự của công dân được quy định trong Hiến pháp và thực tế thực hiện các quyền này có khoảng cách khá xa[5].
Hai là, về việc bảo đảm thực thi các quyền dân sự: Điều 82 Hiến pháp 1980 chính thức quy định: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”. Như vậy, Hiến pháp 1980 tiếp tục thừa nhận quyền lập hiến (thông qua, sửa đổi và bổ sung Hiến pháp) chỉ thuộc về Quốc hội, không có sự phân biệt giữa Quốc hội lập hiến và Quốc hội lập pháp và đặt Quốc hội cao hơn Hiến pháp. Bên cạnh đó, do chủ quan, duy ý chí, quan niệm giản đơn về CNXH, nên Hiến pháp 1980 quy định một loạt các quyền công dân quá cao không mang tính khả thi vì không phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước, như: học không phải trả tiền, khám chữa bệnh không phải trả tiền, quyền có việc làm, quyền có nhà ở… Vì thế, tính đảm bảo thực hiện các quyền dân sự nói riêng và các quyền công dân nói chung trong bản Hiến pháp 1980 là không cao.
1.4. Quyền dân sự của công dân trong Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung)
Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” trong chương V, bao gồm 34 điều (từ Điều 49 đến Điều 82) với tổng cộng 51 quyền trong đó có 26 quyền dân sự, cụ thể: quyền có quốc tịch (Điều 49); quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 52); quyền sở hữu tài sản, quyền thừa kế (Điều 58); quyền bình đẳng nam nữ (Điều 63); quyền tự do đi lại, quyền tự do cư trú ở trong nước, quyền ra nước ngoài, quyền từ nước ngoài trở về nước (Điều 68); quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền tự do lập hội, quyền hội họp, quyền biểu tình (Điều 69); quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 70); quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm (Điều 71); quyền được suy đoán vô tội, quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự do bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật (Điều 72); quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền được bảo đảm an toàn và bí mật về thư tín, quyền được bảo đảm an toàn và bí mật về điện thoại, quyền được bảo đảm an toàn và bí mật về điện tín (Điều 73); quyền khiếu nại và tố cáo, quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự của người bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của nhân viên nhà nước (Điều 74). So với Hiến pháp 1980 thì Hiến pháp 1992 có những điểm mới sau đây về các quyền dân sự của công dân:
Thứ nhất, Hiến pháp 1992 quy định thêm 5 quyền dân sự mới: quyền ra nước ngoài, quyền từ nước ngoài trở về nước (Điều 68); quyền được thông tin (Điều 69); quyền được suy đoán vô tội, quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự do bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật (Điều điều 72). Các quyền dân sự mới hoàn toàn phù hợp với xu thế toàn cầu, hội nhập, hòa hợp dân tộc; góp phần bảo vệ quyền con người, tránh oan sai trong tố tụng hình sự và đề cao nhân tố con người trong nhà nước pháp quyền. Việc bổ sung những quyền này giúp hệ thống pháp luật của nước ta tiệm cận hơn với các tiêu chuẩn pháp luật quốc tế về nhân quyền.
Thứ hai, Hiến pháp 1992 đã có những sửa đổi quan trọng liên quan đến các quyền dân sự của công dân: Điều 70 quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong đó bổ sung 3 quy định mới mà các bản Hiến pháp trước chưa có là “Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật”, “Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ”, “Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Các bổ sung này nhằm tạo ra một môi trường pháp lý bình đẳng cho các tôn giáo tồn tại, nhà nước bảo hộ những điều kiện vật chất cho các tôn giáo tồn tại và khẳng định sự tồn tại của các tín ngưỡng, tôn giáo là một tất yếu khách quan nhằm chống lại những luận điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch. Để đảm bảo cho các quyền được bảo đảm an toàn và bí mật về thư tín và điện tín, điều 73 Hiến pháp 1992 bổ sung một quy định mới “Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữa thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật”. Về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân thì Điều 74 Hiến pháp 1992 có hai sửa đổi quan trọng: một là, công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với “cơ quan nhà nước có thẩm quyền” chứ không phải “với bất cứ cơ quan nhà nước nào”; hai là, Điều 74 Hiến pháp 1992 quy định việc giải quyết khiếu nại, tố cáo “trong thời hạn luật định” chứ không phải “giải quyết nhanh chóng” một cách chung chung như Hiến pháp 1980. Sửa đổi này có tính pháp lý chặt chẽ và ràng buộc hơn.
Thứ ba, Hiến pháp 1992 quy định quyền sở hữu về tài sản của công dân trong chương 5 (chương Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân), theo đó điều 58 đã mở rộng khách thể quyền sở hữu tài sản của công dân, công dân được sở hữu đối với cả “tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp”. Bên cạnh đó, Hiến pháp 1992 không áp dụng các biện pháp quốc hữu hóa và tịch thu tài sản. Điều này đã góp phần xác lập và củng cố nền tảng hiến định cho việc giải phóng, phát huy tiềm năng sáng tạo, năng lực của các tầng lớp nhân dân, từ đó tạo ra sự phát triển vượt bậc về kinh tế, xã hội ở nước ta trong 20 năm qua.
2. Đánh giá, đề xuất liên quan đến việc quy định và thực thi các quyền dân sự theo quy định của Hiến pháp hiện hành
2.1. Về cách thức tiếp cận và quy định các quyền dân sự
Một là, cấu trúc và kỹ thuật lập hiến chưa phù hợp:
i) Về cấu trúc, Hiến pháp 1992 có xu hướng chú trọng trở lại các quyền dân sự của công dân (quy định thêm 5 quyền dân sự mới, số lượng các quyền dân sự trong Hiến pháp hiện hành chiếm 26 quyền trên tổng số 51 quyền được quy định trong chương V). Tuy nhiên, Hiến pháp hiện hành vẫn thiết kế các quyền dân sự sau các quyền chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nếu so sánh với chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp của các quốc gia khác, chương V Hiến pháp 1992 còn chú trọng đến các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền của nhóm, song thiếu quan tâm đúng mức đến các quyền dân sự, chính trị – nhóm quyền “truyền thống” và hiện vẫn là nội dung chính của chế định này trong các bản Hiến pháp trên thế giới. Sự thiếu quan tâm thể hiện ở hai khía cạnh: (i) Danh mục các quyền dân sự trong chương V Hiến pháp 1992 còn thiếu một số quyền quan trọng đã được quy định trong các điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên (hai Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966), đồng thời được Hiến pháp của đa số quốc gia ghi nhận. Ví dụ: quyền sống; quyền được bảo vệ khỏi bị nô lệ, nô dịch hoặc cưỡng bức lao động; quyền tự do tư tưởng; quyền thành lập và tham gia công đoàn… (ii) Nội dung các quyền dân sự, chính trị đã quy định nhìn chung còn sơ sài (so với quy định tương ứng trong luật nhân quyền quốc tế và Hiến pháp nhiều quốc gia khác). Chương V Hiến pháp 1992 còn thiếu một số quy định quan trọng đối với việc hiện thực hóa đầy đủ các quyền con người, quyền công dân, cụ thể như quy định về lộ trình thực hiện các quyền, quy định về giới hạn và tạm đình chỉ thực hiện quyền… Đây cũng là những quy định đã được ghi nhận (trực tiếp hoặc gián tiếp) trong luật nhân quyền quốc tế và Hiến pháp của nhiều quốc gia.
ii) Về kỹ thuật lập hiến, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, Hiến pháp khẳng định nguyên tắc rất quan trọng và có ý nghĩa đối với quyền và nghĩa vụ của công dân là: “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định” (Điều 51 Hiến pháp) – tức là chỉ có Quốc hội bằng Hiến pháp và luật mới được quy định quyền và nghĩa vụ của công dân – nhưng rồi khi quy định các quyền dân sự cụ thể của công dân thì Hiến pháp 1992 vẫn theo cách quy định của Hiến pháp 1980 là kèm theo cụm từ “theo quy định của pháp luật”. Việc quy định như vậy có nghĩa là ngoài Hiến pháp và luật, các văn bản pháp luật khác cũng được quy định quyền dân sự như: nghị định, nghị quyết, chỉ thị, thông tư… bởi “pháp luật” bao hàm tất cả các loại văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Điều này một mặt tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước tùy tiện, lợi dụng “kẽ hở” để ban hành các văn bản quy định quyền dân sự của công dân; mặt khác, dễ dẫn tới ngộ nhận quyền dân sự do nhà nước ban phát mà có, mâu thuẫn với nguyên lý dân chủ: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa (chứ không phải nhà nước) cho họ những quyền không ai có thể chối cãi”. Ngộ nhận trên đồng nghĩa với việc coi Hiến pháp là công cụ của nhà nước sinh ra để cai trị dân chứ không phải là công cụ của dân (đưa ra những thước đo, chuẩn mực, quy tắc ứng xử, giới hạn pháp lý nhà nước được phép làm, hoặc phải làm). Chính vì sinh ra để bảo đảm quyền, lợi ích của dân, nên hầu hết Hiến pháp các nước hiện đại đều bắt đầu bằng chương mục quyền cơ bản công dân sau đó mới đến các chương mục về bộ máy nhà nước để bảo đảm quyền đó[6].
Hai là, tư duy cũ trong việc thiết lập các quyền dân sự hiến định. Do chịu nhiều ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo nên các quyền công dân được quy định trong Hiến pháp nước ta theo cách thức ban cho, mà không phải theo cách thức mặc nhiên thừa nhận, nhà nước không thể không thừa nhận mà còn phải có trách nhiệm bảo vệ những quyền mà tạo hóa đã ban cho con người trước sự vi phạm của các chủ thể khác, trong đó có chính bản thân nhà nước. Hầu hết các quyền của công dân trong Hiến pháp Việt Nam đều được quy định dưới dạng Nhà nước thừa nhận quyền này, quyền kia cho công dân một cách chủ quan duy ý chí chứ không phải là công dân được hưởng các quyền đó một cách mặc nhiên. Ví dụ, Điều 70 Hiến pháp hiện hành quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật”. Điều này có nghĩa là quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân chỉ tồn tại khi nào được nhà nước thừa nhận. Trong khi đó, cách thức thể hiện quyền con người trong Hiến pháp Mỹ cách đây hơn 200 năm theo lối tư duy hoàn toàn khác: “Quốc hội sẽ không được ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do, tín ngưỡng, hạn chế tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền của dân chúng hội họp ôn hòa và kiến nghị lên chính phủ các điều khẩn cầu, để bày tỏ những nỗi bất bình của họ”. Tu chính án này không nhằm mục đích ban phát cho người dân quyền tự do tín ngưỡng hay quyền tự do báo chí, mà chỉ ngăn cấm việc Quốc hội thông qua các đạo luật can thiệp vào những quyền này của cá nhân. Cá nhân thì được tự do, chính quyền thì chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Nhà nước pháp quyền không ban phát các quyền tự do cho con người mà phải thừa nhận các quyền ấy như một sự thật hiển nhiên. Nhà nước pháp quyền được tạo ra là để che chở, bảo vệ các quyền tự do của cá nhân. Việc quy định quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam có tính chất ban phát còn tiềm ẩn một nguy cơ là những quyền không được liệt kê, tức là không được thừa nhận, không được ban phát thì lẽ đương nhiên công dân sẽ không được hưởng. Điều này là không phù hợp với sự phát triển của nhân quyền. Bởi vì việc liệt kê các quyền con người cụ thể sẽ phủ nhận hay hạ thấp các quyền khác của người dân, trong khi quyền con người luôn phát triển theo thời gian. Do đó, việc thay đổi cách thức quy định về quyền con người, quyền công dân có một ý nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm quyền con người trong nhà nước pháp quyền. Quy định về quyền công dân thì phải đặt công dân ở vị trí chủ thể. Nhưng nhiều quy định về nhân quyền trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành đa phần là đặt nhà nước ở vị trí chủ thể, còn công dân thì như là đối tượng được ban cho quyền chứ không phải được thừa nhận quyền. Trong 34 điều của chương V về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, “nhà nước” với tư cách là chủ thể xuất hiện hơn 20 lần. Những công thức thường được áp dụng là: “Nhà nước bảo đảm…” ; “Nhà nước… có kế hoạch…”; “ Nhà nước ban hành…”; “ Nhà nước quy định…” ; “Nhà nước có chính sách…”; “Nhà nước tạo điều kiện…”; “Nhà nước bảo hộ…”. Nếu nhà nước là chủ thể sinh ra quyền thì cũng có thể thu lại, xóa bỏ, giảm bớt hay áp đặt những điều kiện không thích đáng đối với việc hưởng thụ các quyền con người của công dân bất cứ khi nào nhà nước muốn. Các quy định về nhân quyền trong hiến pháp Việt Nam gần như không được tòa án viện dẫn trong xét xử, và công dân cũng gần như không viện đến Hiến pháp để bảo vệ quyền của mình trước tòa. Chính vì vậy, những quy định về nhân quyền trong hiến pháp mặc dù nhiều nhưng còn xa lạ với người dân. Người dân ở vị thế được ban phát. Triết lý này chính là nguyên nhân của những sự nhũng nhiễu, phiền hà đối với người dân khi có việc cần đến công quyền.
Do đó, muốn cho quyền hiến định của công dân có thể được thực hiện và được công dân sử dụng để bảo vệ mình thì việc quy định về nhân quyền phải theo nguyên tắc xác định nhân quyền là khu vực cấm đối với công quyền. Nhà nước chỉ thừa nhận nhân quyền chứ không phải ban cho công dân quyền cơ bản. Ví dụ: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam” (Điều 11, Hiến pháp Việt Nam 1946). Hay các quy định của Hiến pháp Việt Nam hiện hành về các quyền tự do cá nhân là hợp lý vì được ấn định theo nguyên tắc xác định các quyền này như là khu vực cấm đối với công quyền. Ví dụ: “Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân” (Điều 71); “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép” (Điều 73)…
Ba là, xác định chủ thể của các quyền dân sự khá hẹp thể hiện ở chổ rất nhiều quyền con người trong Hiến pháp hiện hành chỉ được quy định dưới hình thức là quyền công dân. Điều 50 Hiến pháp hiện hành quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Tuy nhiên, với cách quy định này thì dễ dẫn đến việc hiểu không đúng rằng “Quyền con người chỉ được thể hiện ở các quyền công dân”. Trên thực tế, quyền con người và quyền công dân không mâu thuẫn nhau nhưng không đồng nhất. Quyền con người bao giờ cũng rộng hơn quyền công dân xét về mặt phạm vi chủ thể lẫn nội dung. Ví dụ, nếu quy định quyền tự do kinh doanh chỉ dưới hình thức là quyền công dân như Điều 57 của Hiến pháp hiện hành thì người nước ngoài và người không quốc tịch sẽ không được quyền kinh doanh ở Việt Nam, điều này sẽ đi ngược lại đường lối đổi mới, thu hút đầu tư nước ngoài của Đảng và Nhà nước ta. Tương tự là các quyền tự do đi lại, cư trú; tự do tín ngưỡng, tôn giáo… Có thể nói chỉ có các quyền trong lĩnh vực chính trị như quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý… mới là quyền công dân thuần túy. Còn hầu hết các quyền trong lĩnh vực khác thực chất là quyền con người, nếu chỉ quy định dưới hình thức là quyền công dân thì sẽ thu hẹp phạm vi chủ thể được hưởng các quyền. Điều này không phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người trong nhà nước pháp quyền.
Do đó, nên sửa đổi Điều 50 của Hiến pháp hiện hành theo hướng như sau: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng và bảo đảm bằng Hiến pháp và luật”. Bên cạnh đó, Hiến pháp nên quy định các quyền dưới hình thức quyền con người (trừ một số quyền trong lĩnh vực chính trị) theo hướng mặc nhiên thừa nhận.
Bốn là, trong Hiến pháp hiện hành, có một số quyền dân sự được quy định một cách gián tiếp thông qua nghĩa vụ của nhà nước đối với các quyền đó như quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm (Điều 71); quyền bất khả xâm phạm về thư tín, điện thoại, điện tín (Điều 73). Hiến pháp cần quy định trực tiếp các quyền này để khẳng định những quyền thiết yếu của công dân trong nhà nước pháp quyền. Bên cạnh đó, Hiến pháp cần bổ sung nghĩa vụ của nhà nước vào quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 52); quyền tự do kinh doanh (Điều 57); quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật (Điều 69).
2.2. Vấn đề cụ thể hóa và thực thi các quyền dân sự
Một là, mặc dù Điều 51 Hiến pháp 1992 đã quy định chính thức “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định” nhưng trên thực tế có nhiều quyền dân sự của công dân được quy định trong các văn bản dưới luật không do Quốc hội ban hành. Ví dụ, về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân thì không có luật mà quyền này được điều chỉnh bởi một văn bản dưới luật là pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/6/2004 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Nghị định 88/2003/NĐ – CP ngày 30/7/2003 quy định về quyền lập hội của công dân…
Hai là, có quyền dân sự đã được hiến định nhưng Quốc hội lại không ban hành luật để cụ thể hóa các quyền ấy như: chưa có luật biểu tình để cụ thể hóa quyền biểu tình quy định tại Điều 69. Việc không ban hành luật để cụ thể hóa các quyền hiến định của công dân một mặt làm cho Hiến pháp trở nên chung chung, ít có giá trị thực tế vì thiếu cơ sở pháp lý để vận hành các quyền của công dân. Mặt khác, điều này sẽ tạo ra rủi ro cho Nhà nước và xã hội vì không có luật định ra những giới hạn cần thiết để thực thi các quyền của công dân trong một khuôn khổ nhất định. Ví dụ, Hiến pháp hầu hết các nước đều khẳng định: biểu tình là quyền cơ bản của người dân, nghĩa là người dân hoàn toàn có quyền xuống đường tập hợp nhau ủng hộ hay chống đối một chủ trương chính sách nào đó của nhà nước, bất cứ đâu, lúc nào, không cần báo trước. Nhưng trên thực tế, quyền đó bị giới hạn bởi Luật biểu tình (luật này dựa trên điều khoản an ninh của Hiến pháp) nên đưa ra điều cấm: không được biểu tình khi thiết quân luật, biểu tình phải đăng ký trước để nhà nước bảo vệ, phải có người tổ chức tránh gây bạo động… Nếu không có luật này, người dân có quyền biểu tình vô giới hạn, bất chấp tất cả. Như vậy, quyền hiến định về biểu tình hoàn toàn được công dân tự động thực hiện; nó chỉ bị giới hạn khi có luật đưa ra quy định (tất nhiên luật không được mâu thuẫn với Hiến pháp), chứ hoàn toàn không như ngộ nhận phổ biến ở nước ta cho rằng chỉ được phép biểu tình khi có luật biểu tình, mà không đặt ra câu hỏi, vậy chẳng lẽ quyền hiến định tự do đi lại chỉ được phép thực hiện khi có luật đi lại tự do, còn không thì cứ phải ngồi chờ văn bản?
Do đó, Quốc hội cần sớm ban hành các luật như Luật biểu tình, Luật được tiếp cận thông tin, Luật về hội họp và lập hội; nâng Pháp lệnh tôn giáo thành Luật tôn giáo… để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc vận hành các quyền dân sự trong thực tế cuộc sống. Bên cạnh đó, để rút ngắn khoảng cách giữa Hiến pháp pháp lý và Hiến pháp thực tế, chúng ta nên xây dựng dự án luật thi hành các quyền mới của công dân để cho Quốc hội thông qua ngay sau khi thông qua Hiến pháp; hoặc ấn định ngay trong Hiến pháp một lộ trình có hiệu lực của các quyền mới.
Ba là, xét về mối tương quan giữa các nhóm quyền của công dân thì chúng ta thấy nhóm quyền dân sự là có sự vi phạm nhiều nhất nguyên tắc “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định”: có 4 quyền dân sự không có luật điều chỉnh hoặc chủ yếu được điều chỉnh bằng văn bản dưới luật (quyền biểu tình; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền hội họp, lập hội), có 8 quyền dân sự không được quy định bằng một văn bản luật riêng mà chỉ được quy định một cách chung chung cùng với các quyền khác (quyền được thông tin; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được suy đoán vô tội; quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự do bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền được bảo đảm an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín). Đối với nhóm quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa của công dân thì không có sự vi phạm nguyên tắc mà các quyền thuộc nhóm này đều được Quốc hội ban hành các văn bản luật quy định cụ thể và rất nhiều nghị định của Chính phủ hướng dẫn chi tiết luật. Còn đối với nhóm quyền về chính trị của công dân thì cũng có sự vi phạm nguyên tắc nhưng ở mức độ ít hơn (chỉ có một quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân là không có luật và văn bản hướng dẫn).
Bốn là, Điều 83 Hiến pháp hiện hành chính thức quy định: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”. Như vậy, Hiến pháp hiện hành cũng thừa nhận quyền lập hiến chỉ thuộc về Quốc hội, không có sự phân biệt giữa Quốc hội lập hiến và Quốc hội lập pháp và đặt Quốc hội cao hơn Hiến pháp. Mặt khác, ở nước ta hiện nay chưa có một cơ quan chuyên trách để bảo vệ các quyền hiến định của công dân một cách hữu hiệu.Vì thế, tính đảm bảo thực hiện các quyền dân sự nói riêng và các quyền công dân nói chung trong Hiến pháp hiện hành cũng không cao.
Do đó, cần tách chức năng lập hiến với chức năng lập pháp, khôi phục lại quyền phúc quyết về Hiến pháp và những vấn đề có quan hệ đến vận mệnh của quốc gia để quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân, nhân dân phải là người chủ thật sự của đất nước. Phúc quyết về Hiến pháp chính là việc nhân dân phân công thực hiện quyền lực cho các cơ quan nhà nước thông qua một bản Hiến pháp đồng thời đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật và trong đời sống xã hội, để không một chủ thể nào trong đời sống xã hội – nhất là các cơ quan nhà nước – được đặt cao hơn Hiến pháp. Bên cạnh đó, cần sớm thành lập Tòa án Hiến pháp độc lập để bảo đảm sự khách quan, hoạt động chuyên trách theo thủ tục tố tụng Hiến pháp trong việc ra các phán quyết về những vi phạm Hiến pháp cả trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tính độc lập của cơ quan bảo vệ Hiến pháp đảm bảo tính cân bằng trong quan hệ quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp[7] và góp phần quan trọng vào việc bảo vệ dân sự nói riêng và quyền con người nói chung.
CHÚ THÍCH
[1] Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội , Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người Nxb Chính trị quốc gia, 2009, tr. 69.
[2] Bùi Ngọc Sơn, Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, 2005, tr. 102.
[3] Bộ luật quốc tế về quyền con người bao gồm 3 văn kiện chính: 1- Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948; 2- Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966; 3- Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa 1966.
[4] Xem thêm: Trương Đắc Linh, Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về chính trị, dân sự trong bốn bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và vấn đề đổi mới hiện nay, Bài tham luận đăng Kỷ yếu Hội thảo khoa Luật Hành chính.
[5] Trương Đắc Linh, Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về chính trị, dân sự trong bốn bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và vấn đề đổi mới hiện nay, Bài tham luận đăng Kỷ yếu Hội thảo Khoa Luật Hành chính.
[6] Ví dụ Hiến pháp Đức, điều khoản đầu tiên được bắt đầu bằng câu: “Nhân phẩm là quyền bất khả xâm phạm (khác với câu: công dân có quyền về nhân phẩm). Chú ý và bảo vệ nó là trách nhiệm của mọi quyền lực nhà nước”. Tinh thần đó có thể tìm thấy cả ở Trung Quốc, khi ngày 14.3.2004, lần đầu tiên trong lịch sử, Hiến pháp đã bổ sung: “Tài sản tư hữu hợp pháp là quyền bất khả xâm phạm. Nhà nước phải chú ý và bảo vệ quyền con người”. Trong điều 1 Hiến pháp Đức còn đưa ra ràng buộc đối với nhà nước: “Các quyền cơ bản khác nêu tại các điều tiếp theo là quyền trực tiếp buộc cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp phải chấp hành”, nhằm nhấn mạnh quyền một khi được hiến định, thì đương nhiên được thực hiện trực tiếp, nhà nước buộc phải phục tùng, khác hẳn với ngộ nhận rằng: Hiến pháp chỉ đưa ra điều khoản chung chung, không có giá trị áp dụng nếu thiếu luật cụ thể hoá nó. Quyền công dân trực tiếp buộc nhà nước phải chấp hành, liên quan tới nguyên lý cơ bản của nhà nước pháp quyền: người dân được quyền làm tất cả trừ những gì luật pháp cấm, ngược lại nhà nước chỉ được làm những gì luật pháp cho phép.
[7] Nguyễn Đăng Dung, Trương Đắc Linh, Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, Nguyễn Văn Trí, Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp – kinh nghiệm thế giới và Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2011, tr. 326.
Tác giả: TS. Nguyễn Mạnh Hùng – Giảng viên Khoa Luật Hành chính, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03/2013 (76)/2013 – 2013, Trang 11-20
Trả lời