Mục lục
Trưng cầu ý dân ở Thụy Điển – Sự tham gia trực tiếp trong một nền dân chủ đại diện
- Giám sát tư pháp các cuộc trưng cầu ý dân ở Hoa Kỳ: Nguyên tắc quy trình chính trị và việc bảo đảm quyền con người – Steven D. Schwinn
- Trưng cầu ý dân của một số quốc gia trên thế giới – TS. Phan Nhật Thanh – ThS. Phạm Thị Phương Thảo
- Mối quan hệ giữa Trưng cầu ý dân với quyền con người, quyền công dân – TS. Đỗ Minh Khôi
- Bàn về đối tượng trưng cầu ý dân – PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp
- Bàn về “Phạm vi trưng cầu ý dân” – TS. Nguyễn Thị Thiện Trí
- Trưng cầu ý dân và dự liệu các tác động không mong muốn – TS. Phan Nhật Thanh
- Nhận định khả năng áp dụng pháp luật trưng cầu ý dân tại Việt Nam – TS. Nguyễn Văn Vân
- Về thông tin, tuyên truyền trong dự thảo luật trưng cầu ý dân ở Việt Nam – TS. Thái Thị Tuyết Dung
- Trưng cầu ý dân tại Việt Nam và bình luận, góp ý dự thảo luật trưng cầu ý dân – PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm
- Phạm vi và giới hạn của vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân – ThS. Đỗ Thanh Trung
- Trưng cầu ý dân ở Thái Lan: Nguyên lý tốt nhưng khó thực hiện – Narin Jareonsubphayanont
TÓM TẮT
Bài viết thảo luận về sự cân bằng giữa hai hình thức dành cho cử tri để thể hiện quan điểm của họ: Bầu ra một người đại diện trong các cuộc bầu cử và tham gia vào cuộc trưng cầu ý dân về một vấn đề cụ thể. Bài viết giải quyết những vấn đề trong mối liên hệ này từ thực tiễn của Thụy Điển từ quá trình dân chủ hóa vào khoảng những năm 1900 cho đến ngày hôm nay. Bài viết cũng đồng thời thảo luận những quy định hiến định và pháp lý chủ yếu ở quy mô quốc gia cũng như là ở quy mô địa phương.
TỪ KHÓA: Trưng cầu ý dân, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam
Lịch sử của vấn đề trưng cầu ý dân ở Thụy Điển có liên hệ mật thiết với quá trình dân chủ hóa và sự ra đời của phổ thông đầu phiếu vào đầu thế kỷ 20. Quy định về phổ thông đầu phiếu cho nam và nữ trong bối cảnh hiện đại được bắt đầu áp dụng ở Thụy Điển vào năm 1919. Riksdag (Nghị viện Thụy Điển) sau đó được bầu trực tiếp (Hạ nghị viện – the second chamber) và gián tiếp (Thượng nghị viện – the first chamber). Những bước chính đã được tiến hành 10 năm trước đó khi mà quyền bầu cử cho nam giới được mở rộng. Trong quyết định này, hệ thống bầu Nghị viện (risksdag) là tương xứng. Nền dân chủ đại diện được coi là một trong những nền tảng của hệ thống Hiến pháp Thụy Điển. Chương 1, Điều 1 Hiến pháp Thụy Điển quy định: “Nền dân chủ của Thụy Điển được xây dựng trên nền tảng của sự tự do thể hiện ý kiến và trên cơ sở công bằng và phổ thông đầu phiếu. Nó được hình thành thông qua sự đại diện và hình thức chính quyền đại nghị và thông qua chính quyền tự quản địa phương”. Như chúng ta có thể thấy trong Đạo luật về Chính phủ Thụy Điển (regeringsformen), khái niệm hiến định của dân chủ bao gồm hai phần. Phần thứ nhất là sự tự do thể hiện quan điểm, là nội dung nằm ngoài bài viết này, trừ khi nó liên quan đến việc cân bằng giữa quan điểm trong các cuộc tranh luận trước một cuộc trưng cầu ý dân. Phần thứ hai là sự bầu cử trực tiếp các đại diện. Các đại diện này sau đó tạo thành thành phần của chính phủ mà sau đó cần được thông qua bởi đa số của các thành viên của nghị viện (parliamentarism). Trong những cuộc bầu cử đó, các cử tri sẽ bầu cho một đảng phái và có thể ủng hộ một ứng viên đặc biệt nào đó. Các thành viên của riksdag có quyền đại diện cho những cử tri đã ủng hộ mình và hành động nhân danh mình về bất kỳ vấn đề nào được quyết định bởi nghị viện, các cử tri đã trao quyền quyết định của mình cho những nghị viên này. Các đảng phái có thể được xem như những người cung cấp tổng thể các ý kiến.
Thực ra trong những ngày đầu tiên của nền dân chủ bầu cử đã có tranh luận về việc liệu rằng các cử tri có thể được trao cho quyền quyết định thông qua cuộc trưng cầu ý dân. Đã có một báo cáo điều tra được ấn hành vào năm 1922. Báo cáo này chỉ ra những tranh luận đã được lặp đi lặp lại kể từ khi nó được đưa ra lần đầu tiên, và vào năm 1923, cuộc trưng cầu ý dân đã được tiến hành về vấn đề cấm hoàn toàn đối với rượu, giống như một cuộc trưng cầu ý dân tương tự được tổ chức ở Hoa Kỳ. Trái với cuộc trưng cầu ý dân ở Hoa Kỳ, kết quả của cuộc trưng cầu ý dân ở Thụy Điển là câu trả lời “không” đối với việc cấm này. Cuộc trưng cầu ý dân đã được tham vấn. Cuộc trưng cầu ý dân này và những cuộc trưng cầu ý dân khác sẽ được trình bày ở phần tiếp theo.
1. Lịch sử trưng cầu ý dân ở Thụy Điển
Tranh luận về hiến pháp ở những năm đầu của thế kỷ trước được chi phối bởi câu hỏi về quyền phổ thông đầu phiếu và thể chế nghị viện (mối quan hệ giữa Nghị viện (riksdag) và chính phủ). Giai đoạn thứ hai của các tranh luận về hiến pháp là từ những năm 1970 trở đi với sự thông qua hiến pháp hiện tại vào năm 1974 và sự bổ sung chính yếu vào năm 2010. Cuộc tranh luận trong giai đoạn này chủ yếu là về việc giới thiệu một mô hình nghị viện (riksdag) đơn viện và sự bảo vệ quyền con người. Vấn đề trưng cầu ý dân nằm ngoài sự tranh luận này. Trưng cầu ý dân được thảo luận nhiều lần trong những năm 1950. Suốt hai thế kỷ đó, 2 trong 6 cuộc trưng cầu ý dân đã được tổ chức.[1]
Vấn đề trưng cầu ý dân lần đầu tiên được đệ trình trước Nghị viện vào năm 1896. Vấn đề này đã bị bác bỏ bởi sự lập luận dựa trên quy định trong Hiến pháp rằng “Nghị viện (riksdag) đại diện cho nhân dân Thụy Điển”. Đề xuất đó được coi là trái với Hiến pháp khi nó đề cập khái niệm trưng cầu ý dân như một sự bày tỏ quan điểm của nhân dân bên ngoài các cuộc bầu cử. Các tranh luận phản bác lập luận rằng hai hình thức này không trái với nhau mà sẽ bổ sung cho nhau.[2]
Hiến pháp đã được sửa đổi vào năm 1921/1922 có một điều khoản cho phép trưng cầu ý dân tự nguyện và có tính tham vấn. Đây là lần đầu tiên Thụy Điển có một điều khoản như vậy trong Hiến pháp của mình. Quy định này được xem là cần thiết bởi vì năm 1897 người ta đã tranh luận về việc nó có phải là hợp hiến hay không.
Quy định tại Điều 49 Đạo luật của Chính phủ năm 1890 chứa đựng thông tin sau đây: nhà vua (vào thời điểm này Chính phủ cũng đã thể hiện quan điểm của mình về nhà vua) và Nghị viện (riksdag) có thể cùng nhau quyết định tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân nếu họ cho rằng điều đó là cần thiết. Quy định này có thể được điều chỉnh bằng một luật mà trong đó bao gồm các vấn đề của cuộc trưng cầu ý dân, thời gian và thủ tục. Cử tri đoàn cũng giống như cử tri đoàn tham gia bầu cử trực tiếp đối với hạ nghị viện. Điều này có nghĩa rằng cuộc trưng cầu ý dân chỉ có thể có tính chất tham vấn. Quyết định cuối cùng thông thường sẽ được đưa ra bởi Nghị viện. Vào tháng 8 năm 1922, cuộc bầu cử đầu tiên đã trì hoãn vấn đề cấm thức uống có cồn. Đề nghị trưng cầu ý dân có tính quyết định đã bị từ chối vào năm 1923 bởi đại đa số. Sự thay đổi trong Hiến pháp được coi như một bước đi cần thiết. Sự ít tham gia của cử tri trong một số cuộc bầu cử sau đó cũng đã góp phần dẫn đến việc làm giảm đi sự nhiệt tình cho vấn đề tham gia trực tiếp của nhân dân.[3]
Trong cuộc thảo luận về Hiến pháp sau Thế chiến thứ hai, chủ yếu là trong những năm 1950 các cuộc trưng cầu ý dân quan trọng một lần nữa được coi là một chọn lựa mà trong đó mô hình của Thụy Sĩ là một hình mẫu. Một bổ sung Hiến pháp mà trong đó đề cập vấn đề về khả năng tổ chức trưng cầu ý dân đã được đưa vào. Trong đó, nó cho phép một tỷ lệ thiểu số của Nghị viện quyết định tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân. Có hai cuộc trưng cầu ý dân được diễn ra trước khi quyết định thứ hai được chấp nhận. Cuộc trưng cầu ý dân thứ nhất năm 1955 đề cập việc liệu Thụy Điển nên giới thiệu mô hình đi xe bên tay phải hay bên trái và cuộc trưng cầu ý dân thứ hai năm 1957 về chế độ thu nhập chung liên quan đến hưu trí. Kết quả của những cuộc trưng cầu ý dân được đưa ra bởi Chính phủ đề xuất rằng những quyết định đang bị ngưng cần phải bị từ bỏ. Vấn đề về quy định Hiến pháp về trưng cầu ý dân về sau đã được đưa ra xem xét trong cuộc sửa đổi hiến pháp năm 1974.
Không có sự thay đổi nào liên quan đến trưng cầu ý dân trong Hiến pháp được quyết định vào năm 1974. Một vài năm sau đó khả năng về một tỷ lệ thiểu số trong Nghị viện có thể quyết định tổ chức về một cuộc trưng cầu ý dân quan trọng về bổ sung hiến pháp được đưa ra và quyết định vào năm 1979. Không có những thay đổi quan trọng nào được thông qua trong lần sửa đổi Hiến pháp vào năm 2010. Có 06 cuộc trưng cầu ý dân quốc gia được tổ chức ở Thụy Điển. Cuộc trưng cầu ý dân đầu tiên được tổ chức vào năm 1922 và cuộc trưng cầu ý dân mới nhất là vào năm 2003.
Bảng: Các cuộc trưng cầu ý dân ở Thụy Điển, năm, sự tham gia và kết quả
Tổng số cử tri | Tham gia | Có | Không | Phiếu trắng | Vô hiệu | |
---|---|---|---|---|---|---|
1922 Việc cấm các thức uống có cồn | 3.302.483 | 55,1% | 49,1% | 50,9% | 6.223 | |
1955 Việc giới thiệu mô hình lái xe bên phải | 4.866.100 | 53% | 15,5% | 82,9% | 1,6% | 6.043 |
1994 Quy chế thành viên EU của Thụy Điển | 6.510.055 | 83,3% | 52,3% | 46,8% | 0,9% | 2.697 |
2003 Việc giới thiệu đồng tiền EU tại Thụy Điển | 7.077.502 | 82,6% | 42% | 55,9% | 2,1% | 3.475 |
Tổng số cử tri | Tham gia | Phương án 1: | Phương án 2: | Phương án 3: | Phiếu trắng | Vô hiệu | |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1957 Chế độ hưu trí mới | 4.907.701 | 72,4% | 45,8% | 15% | 35,3% | 3,9% | 10.282 |
1980 Các nhà máy điện hạt nhân | 6.321.165 | 75,7% | 18,9% | 39,1% | 38,7% | 3,3% | 3.153 |
2. Quy định trong Hiến pháp và luật
Những quy định cơ bản liên quan đến trưng cầu ý dân nằm trong Đạo luật về Chính phủ. Về các cuộc trưng cầu ý dân tham vấn, quy định này là chính thức. Chương 8 Điều 2 quy định việc tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân để tham vấn phải dưới hình thức pháp lý. Điều này có nghĩa rằng quyết định này chỉ có thể được thực hiện bởi Nghị viện. Quy trình cũng phải được điều chỉnh bằng luật, và luật này chỉ là về trưng cầu ý dân đối với sửa đổi Hiến pháp. Luật này được đặt tên là Folkomröstningslagen (1979:369) (Luật về trưng cầu ý dân).
2.1 Trưng cầu ý dân về sửa đổi Hiến pháp
Các sửa đổi Hiến pháp và trưng cầu ý dân về sửa đổi Hiến pháp được điều chỉnh bởi Chương 8 Điều 14-17. Việc thông qua sửa đổi Hiến pháp được được thực hiện thông qua hai quyết định giống nhau. Trước khi đi đến quyết định thứ hai phải có một cuộc bầu cử đối với Nghị viện, quyết định này sẽ được thông qua bởi Nghị viện mới được bầu ra. Một đề xuất về sửa đổi Hiến pháp phải được đệ trình lên cho Nghị viện ít nhất là 9 tháng trước cuộc bầu cử.
Một cuộc trưng cầu ý dân phải được tổ chức nếu như có một tỷ lệ thiểu số trong Nghị viện yêu cầu. Yêu cầu này phải được đưa ra bởi ít nhất 10 thành viên của Nghị viện và có ít nhất 1/3 các nghị viên ủng hộ. Yêu cầu này phải được đệ trình trong phòng 15 ngày kể từ khi có quyết định đầu tiên. Cuộc trưng cầu ý dân được tổ chức sau đó cùng thời gian với cuộc bầu cử chung và phải được tổ chức trước khi có quyết định thứ hai.
Số phiếu sẽ xác định chấp thuận hay từ chối quyết định đề xuất. Nếu quá bán cử tri có quyền đi bầu cử tham gia trưng cầu ý dân và nếu đa số cử tri đó bỏ phiếu chống trong cuộc trưng cầu ý dân thì vấn đề được đề nghị sẽ không được thông qua. Trong một số trường hợp thì đề xuất được trực tiếp gửi đến Nghị viện để xem xét. Cho đến nay thì chưa có một cuộc trưng cầu ý dân về sửa đổi hiến pháp được tổ chức.
2.2 Luật Trưng cầu ý dân
Luật Trưng cầu ý dân quy định về thủ tục trưng cầu. Nhiều thủ tục được dẫn từ Luật Bầu cử (Vallagen 2005: 837). Trách nhiệm của chính phủ và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở các bang được quy định giống như quy định về bầu cử. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về bầu cử được tổ chức ở cấp quốc gia và cấp khu vực. Cơ quan chịu trách nhiệm đăng ký bầu cử là cơ quan thuế vì bởi lẽ cơ quan này phụ trách về đăng ký dân số.
Luật quy định một số quy tắc thủ tục được trong trường hợp một cuộc trưng cầu ý dân không được tổ chức mà không gắn liền với một cuộc bầu cử chung. Cần phải có ít nhất bốn viên chức về bầu cử có mặt toàn bộ thời gian tại phòng khi phiếu bầu được kiểm.
Người có khả năng để tham gia bỏ phiếu trong một cuộc trưng cầu ý dân là các cử tri có quyền bỏ phiếu bầu ra Nghị viện. Danh sách các cử tri được lập ra 30 ngày trước khi diễn ra cuộc trưng cầu ý dân. Những cử tri bắt buộc phải trên 18 tuổi vào ngày trưng cầu ý dân. Trước mỗi cuộc bầu cử, danh sách các cử tri được niêm yết tại mỗi quận. Mỗi cử tri cũng sẽ nhận được một thẻ cử tri đặc biệt thể hiện rằng họ có đủ tư cách để tham gia bầu tại một cuộc trưng cầu ý dân.
Chỉ có những phiếu bầu được cung cấp bởi cơ quan bầu cử quốc gia mới có thể được sử dụng. Phiếu bầu phải có phần để ghi ý kiến của người đi bầu cũng như phần thể hiện phiếu bầu trắng. Tất cả các phiếu bầu phải có kích cỡ bằng nhau, màu sắc và loại giấy như nhau. Việc làm các phiếu bầu được nhà nước chi trả và phải được cung cấp mỗi khi việc bầu được tiến hành.
Cử tri có thể bầu trước ở những nơi khác trước ngày bầu cử. Trong trường hợp một trưng cầu ý dân về Hiến pháp, toàn văn của sửa đổi hiến pháp đề xuất phải được niêm yết tại các nơi mà cuộc bầu cử có thể diễn ra.
Các phiếu bầu được đếm trước tiên ở mỗi quận ngay sau khi cuộc bầu cử kết thúc. Con số thống kê cuối cùng sẽ được thực hiện bởi cơ quan nhà nước địa phương. Các phiếu bầu được giữ lại ít nhất một năm sau ngày trưng cầu ý dân. Quyết định của cơ quan bầu cử có thể bị kháng cáo lên Ủy ban phúc thẩm bầu cử (Valprövningsnämnden).
Khi cuộc trưng cầu ý dân có tính chất tham vấn, đồng thời sẽ có một luật đặc biệt được thông qua, mà trong đó đề cập và quy định về phương án, thông tin ghi trên phiếu bầu và những quy định đặc biệt nếu cần.[4] Các quỹ tài chính cũng đồng thời được phân bổ cho các cuộc vận động bầu cử về những phương án khác nhau, các quỹ này thông thường được phân bổ cho các ủy ban vận động được thành lập đặc biệt.
2.3 Trưng cầu ý dân ở cấp độ địa phương
Các cuộc trưng cầu ý dân cấp địa phương có thể được tổ chức ở các thành phố, quận và vùng. Quy định này có thể được tìm thấy trong đạo luật về chính quyền địa phương (kommunalagen 1991:900) và luật về trưng cầu ý dân tại địa phương (lagen (1994:692) om kommunala folkomröstningar). Hội đồng địa phương sẽ quyết định khi nào những cuộc trưng cầu ý dân được tổ chức.Nhìn chung các quy định về trưng cầu ý dân cấp địa phương tương tự như các quy định về trưng cầu ý dân cấp quốc gia. Tuy nhiên, sự tiến hành một cuộc trưng cầu ý dân địa phương có thể được thực hiện theo sáng kiến chung của ít nhất 10% các cử tri. Hội đồng có thể từ chối sáng kiến đó nếu như đó không phải là một vấn đề để chính quyền địa phương quyết định hoặc nếu có 2/3 thành viên của hội đồng bỏ phiếu chống lại chúng. Quyết định này sẽ được kháng cáo đến tòa án địa phương theo cùng một cách thức như đối với các quyết định của địa phương và khu vực.
3. Trưng cầu ý dân và dân chủ đại diện
Có nhiều quan điểm khác nhau về trưng cầu ý dân của Thụy Điển. Quan điểm thứ nhất cho rằng cần phải xem trọng tính dân chủ trong các vấn đề thảo luận. Kết quả của trưng cầu ý dân phải thể hiện được ý chí của người dân mà nhà nước phải nghe theo. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là ai là người chịu trách nhiệm về quyết định đó. Nhóm thiểu số có thể có rủi ro bởi lẽ họ có những nguyên tắc khác biệt với những vấn đề khác biệt (mang tính đặc trưng thiểu số). Những vấn đề này đã không đặt đúng ngữ cảnh của nó và như vậy, trưng cầu ý dân vẫn bảo lưu trật tự cũ đang tồn tại.[5]
Loại tranh luận thứ hai là về sức sống của nền dân chủ. Các cuộc trưng cầu ý dân làm cho nền dân chủ thêm quan trọng. Sự hiểu biết và lợi ích của công dân tăng lên. Tuy nhiên ở một khía cạnh khác, các cuộc trưng cầu ý dân có thể làm cho nhân dân mệt mỏi với việc tham gia và ít tham gia vào trong các cuộc trưng cầu ý dân.[6]
Loại tranh luận thứ ba là vê việc trưng cầu ý dân làm cho các quyết định trở nên hợp pháp hơn. Tuy nhiên, nó có thể dẫn đến một sự xói mòn về thẩm quyền của cơ quan đưa ra các quyết định thông thường. Nó có thể tạo ra xung đột và làm cho việc tạo ra một thỏa hiệp trở nên khó khăn hơn.[7]
Loại tranh luận thứ tư nhấn mạnh rằng trưng cầu ý dân có thể có vai trò như một van an toàn cho nền dân chủ khi mà các bên đều không chịu nhân nhượng ý kiến đều bị khóa, tuy nhiên từ đó cũng có thể suy diễn rằng các bên sẽ bị yếu đi.[8]
Thực tiễn của Thụy Điển cho thấy sự sử dụng hạn chế các cuộc trưng cầu ý dân. Từ năm 1922 đến nay trưng cầu ý dân được sử dụng mới có 6 lần. Trong nền dân chủ Thụy Điển, dân chủ đại diện rất được coi trọng. Dân chủ trực tiếp ít được sử dụng bởi nó tạo ra những giới hạn cho nền dân chủ đại diện. Thông thường, khi thông qua các quyết định ở Thụy Điển, việc quyết định đối với chỉ một vấn đề mà không xem xét toàn bộ bối cảnh được sử dụng hạn chế. Các cuộc trưng cầu ý dân về quy chế thành viên của Cộng đồng chung châu Âu và về đồng euro có thể xem như là những ví dụ của việc sử dụng thành công các cuộc trưng cầu ý dân. Hai vấn đề này đồng thời cũng là những vấn đề có đặc điểm hiến pháp. Mặt khác, trong cuộc trưng cầu ý dân về giao thông bên phải có trên 80% tỷ lệ ủng hộ việc tiếp tục lái xe bên tay trái. Quyết định này được thay đổi vào giữa năm 1960. Từ năm 1967 có quy định về giao thông bên phải ở Thụy Điển bất chấp kết quả của cuộc trưng cầu ý dân.
CHÚ THÍCH
* GS-TS, Khoa Luật, Đại học Lund, Thụy Điển
[1] SOU 1997:56, tr. 71-72.
[2] SOU 1997:56, tr. 72-76.
[3] SOU 1997:56, tr. 78-91.
[4] Xem Lag (1994:1064) om folkomröstning om EU-medlemskap (Law on Referendum on the membership of EU).
[5] SOU 1997:56, tr. 27-38.
[6] SOU 1997:56, tr. 27-38.
[7] SOU 1997:56 ,tr. 27-38.
[8] SOU 1997:56, tr. 27-38.
Tác giả: Bengt Lundell* – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 07/2015 (92) – 2015, Trang 62-73
Trả lời