Mục lục
Bài viết: Trưng cầu ý dân ở Thái Lan: Nguyên lý tốt nhưng khó thực hiện
- Trưng cầu ý dân Thụy Điển – tham gia trực tiếp trong nền dân chủ đại diện – Bengt Lundell
- Giám sát tư pháp các cuộc trưng cầu ý dân ở Hoa Kỳ: Nguyên tắc quy trình chính trị và việc bảo đảm quyền con người – Steven D. Schwinn
- Trưng cầu ý dân của một số quốc gia trên thế giới – TS. Phan Nhật Thanh – ThS. Phạm Thị Phương Thảo
- Mối quan hệ giữa Trưng cầu ý dân với quyền con người, quyền công dân – TS. Đỗ Minh Khôi
- Bàn về đối tượng trưng cầu ý dân – PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp
- Bàn về “Phạm vi trưng cầu ý dân” – TS. Nguyễn Thị Thiện Trí
- Trưng cầu ý dân và dự liệu các tác động không mong muốn – TS. Phan Nhật Thanh
- Nhận định khả năng áp dụng pháp luật trưng cầu ý dân tại Việt Nam – TS. Nguyễn Văn Vân
- Về thông tin, tuyên truyền trong dự thảo luật trưng cầu ý dân ở Việt Nam – TS. Thái Thị Tuyết Dung
- Trưng cầu ý dân tại Việt Nam và bình luận, góp ý dự thảo luật trưng cầu ý dân – PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm
- Phạm vi và giới hạn của vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân – ThS. Đỗ Thanh Trung
TÓM TẮT
Trưng cầu ý dân lần đầu tiên được đề cập trong Hiến pháp Thái Lan từ năm 1949. Và mặc dù trưng cầu ý dân được thể hiện trong hầu hết các Hiến pháp của Thái Lan sau đó nhưng chỉ có một cuộc trưng cầu ý dân được tổ chức vào tháng 8 năm 2007. Tuy cuộc trưng cầu ý dân lần đầu tiên được tổ chức thành công nhưng cho đến nay vẫn có nhiều nhà phê bình đặt vấn đề về tính hợp pháp của kết quả trưng cầu ý dân. Điều này là bởi nguyên lý về trưng cầu ý dân được đưa ra ở Thái Lan cách đây 60 năm với hy vọng giải quyết những vấn đề chính trị nhưng Thái Lan lại phải đối mặt nhiều hơn với những bất ổn chính trị nội tại mà hầu hết là các cuộc đảo chính. Do vậy, vấn đề đặt ra là: tại sao nguyên lý hay như vậy không thực hiện được? Để trả lời câu hỏi này, cần phải xem lại và thảo luận về những quy định trưng cầu ý dân trong các Hiến pháp trước đây và Hiến pháp Thái Lan hiện hành, pháp luật trưng cầu ý dân nói chung và những tài liệu pháp lý khác liên quan đến trưng cầu ý dân.
TỪ KHÓA: Trưng cầu ý dân, Góp ý sửa đổi Luật, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam
Trưng cầu ý dân đã phát triển rất nhanh trên phạm vi toàn cầu trong 30 năm qua.[1] Trên khắp thế giới, ước tính có khoảng 58 quốc gia với nền dân chủ bầu cử đang hoạt động chiếm hơn ba triệu người, trong số 58 quốc gia đó, từ năm 1975 đến 2000, có 39 quốc gia có ít nhất một lần trưng cầu ý dân trên phạm vi toàn quốc.[2] Trưng cầu ý dân được xem là một trong những hình thức dân chủ trực tiếp. Per Lupia và Matsusaka[3] nhận định “dân chủ trực tiếp là một thuật ngữ có nghĩa rộng bao hàm các quá trình mang tính quyết định, bao gồm hội nghị cử tri toàn thành phố, yêu cầu cuộc tuyển cử, đề xướng dự luật, và nhiều hình thức khác của trưng cầu ý dân”. Trưng cầu ý dân, chẳng hạn ở Califonia và Thụy Sỹ, thường được sử dụng nhằm hỗ trợ cho sự lập pháp hoặc thể chế hóa như một hoạt động của chính phủ. Tương tự như vậy, trưng cầu ý dân ngày càng được thực hiện nhiều nhằm giải quyết các vấn đề lập hiến cơ bản [4] Mặc dù trưng cầu ý dân thường sử dụng một cách thường xuyên ở các quốc gia có nền dân chủ tiên tiến, tính đại chúng của trưng cầu ý dân đã được mở rộng một cách nhanh chóng ngay cả trong những nước có nền chính trị non trẻ.[5]
Trưng cầu ý dân có thể định nghĩa một cách đại khái “là một sự bỏ phiếu đại chúng của cử tri về các vấn đề mang tính chất công”.[6] Theo Butler,[7] ở một vài quốc gia, trưng cầu ý dân (referendum) cũng được gọi là cuộc bỏ phiếu của toàn dân (plebiscites). Butler cũng cho rằng thuật ngữ “cuộc bỏ phiếu của toàn dân” bị mang tiếng xấu vì nó được xem như cách thức đã bị Adolf Hitler lạm dụng. Theo Luật Canada thì có sự khác nhau giữa trưng cầu ý dân và cuộc bỏ phiếu toàn dân. Trưng cầu ý dân được tiến hành theo Đạo luật về Trưng cầu ý dân và kết quả thường mang tính bắt buộc đối với nhà nước, trong khi đó thì cuộc bỏ phiếu toàn dân được thực hiện theo Đạo luật Bầu cử và kết quả bỏ phiếu có thể mang tính bắt buộc đối với nhà nước. Ở Úc, trưng cầu ý dân mang tính tư vấn cũng được gọi là cuộc bỏ phiếu toàn dân (Ủy ban Bầu cử Úc, 2014). Trong khi đó, ở Thái Lan, thuật ngữ cuộc bỏ phiếu toàn dân mang nghĩa là cuộc trưng cầu ý dân về một vấn đề có liên quan đến cá nhân hay một nhóm[8] thì bị cấm theo quy định về trưng cầu ý dân trong Hiến pháp năm 1997 và Hiến pháp năm 2007. Như vậy, có thể hiểu là theo Hiến pháp Thái Lan, trưng cầu ý dân (referendum) thì được phép nhưng cuộc bỏ phiếu toàn dân (plebiscites) thì bị cấm.
1. Quy định về trưng cầu ý dân trong Hiến pháp Thái Lan
Cuộc cách mạng 1932 đã chấm dứt nền quân chủ chuyên chế kéo dài hàng thế kỷ và Hiến pháp đầu tiên của người Xiêm (Thái Lan ngày nay) đã được thông qua. Đến nay Thái Lan đã ban hành tất cả 18 bản Hiến pháp. Ngoại trừ 2 Hiến pháp tạm thời, trong 16 Hiến pháp chính thức thì chỉ có 5 Hiến pháp có quy định về trưng cầu ý dân. Ví dụ: Hiến pháp của Vương quốc Thái Lan năm 1949, Hiến pháp của Vương quốc Thái Lan năm 1968, Hiến pháp của Vương quốc Thái Lan năm 1974, Hiến pháp của Vương quốc Thái Lan năm 1997, và Hiến pháp của Vương quốc Thái Lan năm 2007.
Trưng cầu ý dân lần đầu tiên xuất hiện trong Hiến pháp năm 1949[9] Quy định về trưng cầu ý dân của các Hiến pháp sau đó là Hiến pháp năm 1968 và Hiến pháp năm 1974 đã kế thừa các khái niệm tương tự như Hiến pháp năm 1949. Hai Hiến pháp gần đây nhất là Hiến pháp năm 1997 và Hiến pháp năm 2007 có một phần (riêng) quy định về trưng cầu ý dân. Hiến pháp năm 1997 quy định về trưng cầu ý dân như sau:[10] “Trong trường hợp Hội đồng Bộ trưởng nhận thấy có bất kỳ vấn đề nào ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia và/hoặc lợi ích công cộng, Thủ tướng Chính phủ, dưới sự chấp thuận của Hội đồng Bộ trưởng, có thể tư vấn Chủ tịch thượng nghị viện và Chủ tịch Hạ nghị viện phát hành Công báo Chính phủ kêu gọi một cuộc trưng cầu ý dân.
Trưng cầu ý dân được tổ chức nhằm mục đích tư vấn ý kiến của công chúng về những vấn đề quan trọng ở đoạn 1 sẽ được thông qua hay không chứ không phải là những vấn đề trái với hay mâu thuẫn với Hiến pháp. Trưng cầu ý dân sẽ không tổ chức vì vấn đề cụ thể liên quan đến cá nhân hay một nhóm người.
Sự phát hành (công báo) theo đoạn 1 phải xác định thời gian trưng cầu ý dân, nhưng không được sớm hơn 90 ngày và không được muộn hơn 100 ngày và (hay muộn hơn) 20 ngày kể từ ngày đăng công báo, và thời gian trưng cầu ý dân phải tổ chức đồng thời xuyên suốt toàn bộ Vương quốc.
Khi công báo phát hành theo đoạn 1 có hiệu lực, nhà nước phải có hành động nhằm bảo đảm những người đồng ý hoặc không đồng ý với vấn đề trưng cầu đều được thể hiện ý kiến của mình một cách bình đẳng.
Người có quyền bỏ phiếu bầu cử thành viên Hạ nghị viện sẽ có quyền bỏ phiếu trong cuộc trưng cầu ý dân.
Nếu trong cuộc trưng cầu ý dân mà số người bỏ phiếu ít hơn 1/5 số người có quyền bỏ phiếu thì có nghĩa vấn đề trưng cầu không được đa số dân chúng thông qua. Nếu hơn 1/5 người có quyền bỏ phiếu bỏ phiếu đồng ý vấn đề trưng cầu thì xem như vấn đề đó được thông qua bởi đa số dân chúng
Trưng cầu ý dân theo quy định này chỉ có hiệu lực khi có thông báo bằng văn bản của Hội đồng Bộ trưởng về vấn đề đó.
Nguyên tắc và thủ tục bỏ phiếu trong trưng cầu ý dân phải tuân thủ theo đúng pháp luật về trưng cầu ý dân”.
Sau khi có cuộc đảo chính không đổ máu vào tháng 9 năm 2006 và kết quả là sự bãi bỏ Hiến pháp năm 1997, một năm sau đó, một hiến pháp mới được thông qua bởi nhân dân với cuộc trưng cầu ý dân đầu tiên và duy nhất trên phạm vi toàn quốc để phê chuẩn Hiến pháp năm 2007. Trong Hiến pháp này, vấn đề trưng cầu ý dân được quy định tại Chương 7: Sự tham gia chính trị trực tiếp của Nhân dân, đoạn 165. Đoạn này quy định (Ủy ban soạn thảo Hiến pháp, 2007):
“Người có quyền bỏ phiếu sẽ có quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân. Trưng cầu ý dân có thể được thực hiện trong những trường hợp sau:
(1) Khi Hội đồng Bộ trưởng nhận thấy có bất kỳ vấn đề nào ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia và hoặc lợi ích công cộng, Thủ tướng Chính phủ, dưới sự chấp thuận của Hội đồng Bộ trưởng, có thể tư vấn Chủ tịch thượng nghị viện và Chủ thịch Hạ nghị viên phát hành Công báo Chính phủ kêu gọi một cuộc trưng cầu ý dân.
(2) Khi pháp luật quy định phải trưng cầu ý dân.
Trưng cầu ý dân theo khoản (1) hoặc (2) được thực hiện nhằm có được một quyết định cuối cùng bởi tổng số cử tri có quyền bỏ phiếu bỏ phiếu cho cuộc trưng cầu ý dân về một vấn đề nhất định, hoặc được thực hiện nhằm đưa ra lời tư vấn cho Hội đồng Bộ trưởng, trừ những vấn đề luật đã có quy định cụ thể.
Trưng cầu ý dân phải được thực hiện bằng việc bỏ phiếu đồng ý hay không đồng ý về vấn đề được trưng cầu ý dân và vấn đề đó không được trái với hay mâu thuẫn với Hiến pháp hoặc liên quan đến bất kỳ cá nhân hay một nhóm người nào.
Trước khi trưng cầu ý dân, Nhà nước phải thực hiện các bước cung cấp thông tin một cách đầy đủ, đưa ra bên ủng hộ và bên phản đối về vấn đề cần trưng cầu để họ có cơ hội bình đẳng trong việc thể hiện ý chí của mình.
Nguyên tắc và thủ tục bỏ phiếu trong trưng cầu ý dân phải tuân thủ theo đúng pháp luật về trưng cầu ý dân, trong đó ít nhất là phải quy định chi tiết về phương pháp trưng cầu ý dân, thời hạn trưng cầu ý dân và số lượng cử tri đủ để đạt được quyết định cuối cùng.”
Bảng 1: Tóm tắt quy định trưng cầu ý dân trong Hiến pháp Thái Lan
Hiến pháp | Tóm tắt quy định |
---|---|
Hiến pháp năm 1949, Hiến pháp năm 1968, và Hiến pháp năm 1974 | - Chỉ được phép trưng cầu ý dân về lập hiến. - Trưng cầu ý dân không bắt buộc nhưng kết quả bắt buộc tuân thủ. - Nếu nhà vua cho rằng đề nghị sửa đổi Hiến pháp có thể ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia và lợi ích cộng đồng, nhà vua yêu cầu trưng cầu ý dân. - Trưng cầu ý dân được tổ chức không được muộn hơn 190 ngày. - Số lượng cử tri phải đa số để đảm bảo điều kiện thông qua một cuộc trưng cầu ý dân. |
Hiến pháp năm 1997 | - Cho phép bất kỳ vấn đề nào mà nó có thể ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia hoặc lợi ích công cộng. - Trưng cầu ý dân không bắt buộc và kết quả không bắt buộc tuân thủ. - Thủ tướng Chính phủ, với sự đồng ý của Hội đồng Bộ trưởng, có thể yêu cầu trưng cầu ý dân. - Trưng cầu ý dân không được sớm hơn 90 ngày và không được muộn hơn 120 ngày. - Thời gian trưng cầu ý dân phải được tổ chức đồng thời trên phạm vi toàn quốc. - Vấn đề được trưng cầu ý dân không được trái hay mâu thuẫn với Hiến pháp hoặc liên quan đến bất kỳ cá nhân hay một nhóm người nào. - Trước khi trưng cầu ý dân, Nhà nước cần bảo đảm hai bên (ủng hộ và phản đối) có quyền thể hiện ý chí của họ một cách bình đẳng. - Nguyên tắc và thủ tục bỏ phiếu trong trưng cầu ý dân phải tuân thủ theo đúng pháp luật về trưng cầu ý dân. - Số phiếu đạt yêu cầu phải từ đủ 1/5 trên tổng số người có quyền bỏ phiếu. |
Hiến pháp năm 2007 | - Cho phép trong cả hai trường hợp đó là khi có bất kỳ vấn đề nào ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia hoặc lợi ích công cộng, hoặc trong trường hợp pháp luật yêu cầu. - Trưng cầu ý dân có thể bắt buộc hoặc không bắt buộc và kết quả cũng có thể bắt buộc hoặc không bắt buộc. - Thủ tướng Chính phủ, với sự đồng ý của Hội đồng Bộ trưởng, có thể yêu cầu trưng cầu ý dân. - Vấn đề được trưng cầu ý dân không được trái với hay mâu thuẫn với Hiến pháp hoặc liên quan đến bất kỳ cá nhân hay một nhóm người nào. - Trước khi trưng cầu ý dân, Nhà nước phải thực hiện các bước cung cấp thông tin một cách đầy đủ, đưa ra bên ủng hộ và bên phản đối về vấn đề cần trưng cầu để họ có cơ hội bình đẳng trong việc thể hiện ý chí của mình. - Nguyên tắc và thủ tục bỏ phiếu trong trưng cầu ý dân phải tuân thủ theo đúng pháp luật về trưng cầu ý dân. - Yêu cầu về số lượng cử tri phải đủ để thông qua trưng cầu ý dân. Đạo luật về trưng cần ý dân còn quy định thêm đối với kết quả bắt buộc, để thông qua trưng cầu ý dân phải trên 50% phiếu bầu và trên 50% số lượng cử tri có quyền bỏ phiếu. Tuy nhiên, với việc trưng cầu mang tính tư vấn thì chỉ cần 50% phiếu bầu là có thể thông qua trưng cầu ý dân. |
2. Trưng cầu ý dân lập hiến
Những hiến pháp đầu tiên như Hiến pháp năm 1949, Hiến pháp năm 1968 và Hiến pháp năm 1974 đã có quy định về trưng cầu ý dân nhưng chỉ cho phép trưng cầu trong việc sửa đổi hiến pháp. Đó là sự hạn chế. Ba Hiến pháp này trao quyền cho nhà vua trưng cầu ý dân sau khi đề nghị sửa đổi hiến pháp được nghị viện thông qua và đệ trình lên nhà vua phê chuẩn. nhà vua sẽ quyết định tổ chức trưng cầu ý dân. Tuy nhiên, trong suốt thời gian tồn tại của ba hiến pháp trên, nhà vua không thực hiện quyền lực này. Một trong những lý do mà khiến nhà vua không sử dụng quyền lực này có thể do sự bất ổn về chính trị trong thời kỳ đó. Từ năm 1949 đến năm 1974, có bốn cuộc đảo chính thành công ở Thái Lan. Sau mỗi lần đảo chính thì nhóm nắm giữ quyền lực lại ban hành một hiến pháp mới. Giai đoạn đầu tiên của trưng cầu ý dân kết thúc với Hiến pháp năm 1974.
Sau một thời gian dài gián đoạn, khái niệm về trưng cầu ý dân được quy định lại trong Hiến pháp năm 1997 nhằm thực hiện tinh thần lập hiến của nhân dân. Hiến pháp mới đã thay đổi hoàn toàn về trưng cầu ý dân. Quyền yêu cầu trưng cầu ý dân trao được cho Thủ tướng Chính phủ thay vì nhà vua như trước đây. Thủ tướng Chính phủ, sau khi được sự đồng ý của chính phủ có thể yêu cầu một cuộc trưng cầu ý dân về bất kỳ vấn đề nào có ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia hay lợi ích công miễn là vấn đề đó không được trái hay mâu thuẫn với Hiến pháp hoặc liên quan đến bất kỳ cá nhân hay một nhóm người nào. Tuy nhiên, theo quy định của Hiến pháp, kết quả trưng cầu ý dân đơn thuần chỉ mang tính chất tư vấn của nhân dân. Nhà nước không cần thiết bắt buộc tuân thủ theo kết quả trưng cầu ý dân. Bên cạnh đó, thời hạn trưng cầu ý dân cũng đã thay đổi từ 90 ngày theo quy định của các Hiến pháp trước đây thì nay quy định là không được tổ chức sớm hơn 90 ngày và không được muộn hơn 120 ngày. Ngoài ra, điều kiện yêu cầu về đa số thông qua trưng cầu ý dân cũng thay đổi từ đa số đơn sang đa số kép, tức yêu cầu phải có ít nhất 1/5 tổng số người có quyền bỏ phiếu đi bỏ phiếu, và phải có quá bán phiếu thuận thì trưng cầu ý dân mới được thông qua.
Theo Klein,[11] có hai vấn đề cơ bản đối với các quy định về trưng cầu ý dân theo Hiến pháp năm 1997. Thứ nhất, quyết định tổ chức trưng cầu ý dân chỉ nằm trong tay Chính phủ, cụ thể là Thủ tướng Chính phủ. Thứ hai, trưng cầu ý dân chỉ giới hạn đối với những vấn đề của quốc gia mà không có quy định trưng cầu ý dân đối với các vấn đề ở địa phương. Klein cũng kiến nghị thêm rằng công dân cũng nên có quyền yêu cầu trưng cầu ý dân thông qua đơn kiến nghị.[12] Giáo sư Boramanand cảnh báo là theo Hiến pháp, nếu kết quả của trưng cầu ý dân chỉ thuần túy vì mục đích tư vấn thì nó trái với lý thuyết về trưng cầu ý dân. Ông cho rằng về mặt lý luận, kết quả trưng cầu ý dân chính là yêu cầu của công chúng, nếu kết quả của trưng cầu ý dân không được thực hiện, nó có thể tạo ra một sự đối đầu giữa chính quyền và công chúng.[13] Bên cạnh những vấn đề mà Klein và Boramanand đưa ra, thời hạn trưng cầu ý dân cũng là một bất cập. Xét từ góc độ thực tiễn, trưng cầu ý dân là một công cụ đo lường khủng hoảng, được sử dụng để giải quyết một vấn đề hoặc điều chỉnh một giải pháp cụ thể.14 Quy định không được tổ chức trưng cầu ý dân sớm hơn 90 ngày, thì trong một vài trường hợp, là quá trễ. Ngoài ra, không hiểu vì sao Hiến pháp lại quy định là việc tổ chức trưng cầu ý dân phải diễn ra cùng ngày trên phạm vi toàn quốc. Nhìn bề ngoài, quy định của Hiến pháp dường như hợp lý nhưng điều này sẽ tạo rắc rối cho cuộc trưng cầu ý dân. Nếu chỉ có một địa điểm bỏ phiếu, thì rõ ràng là không thể nào tất cả người dân có thể bỏ phiếu trong một ngày, và nhiều người sẽ yêu cầu Tòa án Hiến pháp hủy bỏ kết quả trưng cầu vì nó vi hiến.
Bảng 2: Sự giống và khác nhau về trưng cầu ý dân theo quy định của các Hiến pháp
Phạm vi/ Hiến pháp | Vấn đề | Quyền đề xướng | Loại | Thời gian | Kết quả | Mức độ | Yêu cầu để thông qua |
---|---|---|---|---|---|---|---|
Hiến pháp năm 1949, Hiến pháp năm 1968 và Hiến pháp năm 1974 | Chỉ sửa đổi Hiến pháp | Nhà vua | Không bắt buộc | Trong vòng 90 ngày | Bắt buộc | Toàn quốc | Quá bán đơn |
Hiến pháp năm 1997 | Bất kỳ vấn đề nào | Thủ tướng Chính phủ | Không bắt buộc | 90-120 ngày | Không bắt buộc | Toàn quốc | Quá bán kép (Tức đa số phiếu và 1/5 số cử tri đi bầu) |
Hiến pháp năm 2007 | Bất kỳ vấn đề nào hoặc pháp luật quy định | Thủ tướng Chính phủ | Bắt buộc hoặc không bắt buộc | 90-120 ngày | Bắt buộc hoặc không bắt buộc | Toàn quốc | - Quá bán kép thì bắt buộc tuân thủ ** (** > 50% số phiếu và > 50% số cử tri đi bầu) - ít nhất 50% cử tri tham gia trưng cầu |
3. Hiến pháp Thái Lan năm 2007
Theo Hiến pháp năm 2007, quyền yêu cầu trưng cầu ý dân thuộc về Thủ tướng Chính phủ sau khi được Chính phủ thông qua. Hiến pháp quy định Thủ tướng Chính phủ có thể đưa ra một cuộc trưng cầu ý dân mà không cần tư vấn Chủ tịch Hạ nghị viện và Chủ tịch Thượng viện. Đối với những vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia hoặc lợi ích công cộng hoặc pháp luật quy định thì Thủ tướng Chính phủ có quyền yêu cầu trưng cầu ý dân. Thời hạn trưng cầu ý dân không quy định trong Hiến pháp nhưng được quy định trong Đạo luật về Trưng cầu ý dân. Đạo luật Trưng cầu ý dân quy định thời hạn từ 90 đến 120 ngày, giống như Hiến pháp năm 1997. Hai thay đổi cơ bản trong Hiến pháp là trưng cầu ý dân có thể mang tính tư vấn hay bắt buộc, ngoài ra, yêu cầu để thông kết quả trưng cầu ý dân qua cũng cao hơn. Theo quy định của Hiến pháp, Thủ tướng Chính phủ sẽ phải lựa chọn liệu kết quả chỉ đơn giản là được xem như ý kiến mang tính tư vấn (không bắt buộc) hoặc nó có thể xem như một phần của quy trình lập pháp (bắt buộc). Để bảo đảm kết quả hợp pháp của trưng cầu ý dân, yêu cầu kết quả trưng cầu để được thông qua cao hơn so với hiến pháp trước đây. Để thông qua kết quả trưng cầu ý dân mang tính tư vấn (không bắt buộc) thì chỉ cần đạt 50% số phiếu, nhưng trưng cầu ý dân bắt buộc thì đòi hỏi phải quá bán kép tức phải trên 50% tổng số người có quyền bỏ phiếu đi bỏ phiếu và phải trên 50% số phiếu thuận.
4. Thảo luận
Từ khi xuất hiện lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 1949, khái niệm trưng cầu ý dân đã được mở rộng dần ở các hiến pháp tiếp theo. Hiện nay trưng cầu ý dân có thể giúp giải quyết bất kỳ vấn đề nào mà chính phủ thấy cần thiết. Hệ thống và cơ chế quy định trong hiến pháp ngày càng mang tính hiệu quả hơn trong việc tổ chức trưng cầu bắt buộc và trưng cầu không bắt buộc. Tuy nhiên, ở Thái Lan trưng cầu ý dân dường như rất khó để thực hiện trên thực tế vì nhiều lý do khác nhau. Thứ nhất, những quy định về trưng cầu ý dân trong hiến pháp và quy trình trưng cầu ý dân không phản ánh được và cũng không thích hợp với những hình thức và mức độ khác nhau của trưng cần ý dân. Hiến pháp hiện hành (2007) không quy định tổ chức trưng cầu ý dân ở địa phương. Nó chỉ cho phép trưng cầu ý dân ở cấp độ quốc gia. Trong khi đó những quy định nghiêm ngặt và trình tự thủ tục cứng nhắc áp dụng cho trưng cầu ý dân bắt buộc của Đạo luật Trưng cầu ý dân cũng được áp dụng cho trưng cầu ý dân không bắt buộc. Thứ hai, bởi lẽ chỉ có Thủ tướng Chính phủ mới có quyền yêu cầu mà Thủ tướng là nhà chính trị nên dân chúng luôn nghi ngờ có những mưu đồ chính trị ẩn giấu sau những vấn đề mà nhà chính trị lựa chọn để đưa ra trưng cầu ý dân. Thậm chí sẽ khó khăn hơn rất nhiều để kêu gọi một cuộc trưng cầu ý dân khi khủng hoảng chính trị do dân chúng mất lòng tin. Do đó, trong nhiều trường hợp, các nhà chính trị lựa chọn sẽ không trưng cầu ý dân nhằm tránh tăng thêm sự nghi ngờ hay làm cho tình hình nặng nề thêm. Thứ ba, tranh luận chưa được giải quyết liên quan đến việc đa số trưng cầu ý dân cần một kết quả hợp pháp chưa ngã ngũ. Hiến pháp năm 2007 quy định các tiêu chí hiện hành nhưng nhiều nhà phê bình cho rằng nó rất khó thành công bởi lẽ trưng cầu ý dân là quyền chứ không phải nghĩa vụ như bầu cử. Nếu trưng cầu ý dân không đem cho cử tri nhiều lợi ích, đặc biệt khi chính phủ là người đề xướng, thì chắc chắn sẽ không có trưng cầu ý dân.
CHÚ THÍCH
* Khoa Quản trị địa phương, Đại học Khon Kean, Thái Lan.
[1] Tierney, S., Constitutional referendums: The theory and practice of republican deliberation, Oxford University Press, 2012.
[2] LeDuc, L., The politics of direct democracy: Referendum in global perspective. Broadview Press, 2003.
[3] Lupia, A., & Matsusaka, J. G., Direct democracy; new approaches to old questions. Annu. Rev. Polit. Sci., 7, 2004.
[4] Tierney, S. (2012). Constitutional referendums: The theory and practice of republican deliberation. Oxford University Press.
[5] Lin, J.W. (2004). Taiwan’s referendum act and the stability of the status quo. /ISSUES AND STUDIES-ENGLIS EDITION – 40(2).
[6] Lin, J.W. (2004). Taiwan’s referendum act and the stability of the status quo. /ISSUES AND STUDIES-ENGLIS EDITION – 40(2).
[7] Butler, D. (1994). Referendums Around The World: The Growing Use of Direct Democracy, Aei Pres.
[8] Boramanand, N. (2005). The Referendum is contrary to the Constitution of the Kingdom of Thailand. Pub-Law.Net. Retrieved April 28, 2015.
[9] Oudchachon, P. (2012). Exposed Referendum Section of the Constitution. Matichon. Retrived April 27, 2015.
[10] The Office of the Council of State, 1997, Consitution of Kingdom of Thailand B.E. 2540, 1997, Bangkok: Royal Thai Government Gazette.
[11] Klein, J. R, The Constitution of the Kingdom of Thailand, 1997: a blueprint for participatory democracy. 1998.
[12] Klein, J. R, The Constitution of the Kingdom of Thailand, 1997: a blueprint for participatory democracy, 1998.
[13] Boramanand, N, The Referendum is contrary to the Constitution of the Kingdom of Thailand, 2005, Pub-Law.Net. Retrieved April 28, 2015.
Tác giả: Narin Jareonsubphayanont* – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 07/2015 (92) – 2015, Trang 74-80
Like fanpage Luật sư Online tại https://www.facebook.com/iluatsu/