Sửa đổi Luật TTHC nhằm thực hiện nguyên tắc tranh tụng quy định trong Hiến pháp năm 2013
TÓM TẮT
Bài viết phân tích một vài nhận thức về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng nói chung và trong tố tụng hành chính nói riêng. Riêng trong lĩnh vực tố tụng hành chính, bài viết còn chỉ ra những hệ quả xấu do thiếu các quy định chi tiết về các quyền, nghĩa vụ mang tính tranh tụng của các bên trong tố tụng. Trên cơ sở đó, các tác giả đưa ra những kiến nghị sửa đổi Luật Tố Tụng Hành Chính và các biện pháp khác nhằm đảm bảo việc thực thi nguyên tắc tranh tụng.
Xem thêm:
- Hoàn thiện các quy định về chứng minh trong tố tụng hình sự đảm bảo quyền bào chữa và tranh tụng – TS. Lê Nguyên Thanh
- Bàn về người khởi kiện và người bị kiện trong vụ án hành chính – ThS. Lê Việt Sơn
- Nguyên tắc tranh tụng trong Tố tụng dân sự Việt Nam – TS. Trương Thị Hòa
TỪ KHÓA: Tranh tụng, Hiến pháp 2013,
Sau hơn 10 năm kể từ khi Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính Trị được ban hành, nguyên tắc tranh tụng chỉ mới được ghi nhận tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013.Để thực hiện nguyên tắc này các văn bản luật nói chung và đặc biệt là các Luật về tố tụng phải sữa đổi để làm cơ sở pháp lý cho hoạt động tranh tụng. Nhìn nhận dưới góc độ Luật tố tụng hành chính, chúng tôi thấy rằng có ba vấn đề sau đây cần phải giải quyết để thực hiện nguyên tắc tranh tụng:
– Phải nhận thức chính xác về nguyên tắc tranh tụng nói chung và tranh tụng trong tố tụng hành chính ở Việt Nam nói riêng.
– Trên cơ sở nhận thức chính xác trên sửa đổi Luật Tố tụng hành chính hiện hành.
– Tổ chức thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động tố tụng hành chính và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc này
1. Nhận thức về nguyên tắc tranh tụng nói chung và tranh tụng trong tố tụng hành chính ở Việt Nam nói riêng.
Tác giả Trần Thị Tố Thu có bài viết với tựa đề Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo thể hiện trong Luật tố tụng hành chính trên báo điện tử của TANDTC với đề xuất rằng cần thay đổi cụm từ “tranh luận” trong Điều 158 và Điều 159 Luật tố tụng hành chính 2010 thành “tranh tụng”[1]. Chúng tôi đồng ý một phần với đề xuất này, bởi lẽ “tranh luận” và “tranh tụng” không đồng nhất với nhau. Theo PGS-TS Trần Văn Đô,̣ xét ở nghĩa Hán Việt “tranh tụng là tranh luận trong tố tụng”[2]. Tuy nhiên, PGS-TS Trần Văn Độ cũng chỉ ra rằng, hoạt động tranh tụng không chỉ bó hẹp trong việc tranh luận[3]mà tranh tụng còn bao gồm các hoạt động cung cấp chứng cứ, xem xét chứng cứ ngay tại phiên tòa. Và thực tế, để có các chứng cứ, vật chứng và nhân chứng đó, hoạt động tranh tụng còn phải diễn ra ngay tại khâu chuẩn bị xét xử, bởi các hoạt động thu thập chứng cứ, lấy lời khai… Cách hiểu về tranh tụng của tác giả Tố Thu đã giới hạn nội dung của tranh tụng không chỉ tại phiên tòa, mà còn giới hạn nội dung của nguyên tắc tranh tụng.
Theo chúng tôi, nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc chỉ đạo trong tố tụng. Nguyên tắc này đảm bảo cho các đương sự của một vụ kiện thực hiện tranh tụng một cách công bằng và hợp pháp nhất. Về cơ bản, nguyên tắc tranh tụng có hai nội dung chính sau:
Thứ nhất, nguyên tắc quy định sự độc lập của chủ thể có chức năng xét xử trong tố tụng với các chức năng khác như điều tra và cáo buộc, khởi kiện.
Thứ hai,sự công bằng giữa quyền và nghĩa vụ của các bên đối lập, tức hai bên khởi kiện và bên bị khởi kiện, để có thể thu thập, cung cấp chứng cứ và triệu tập nhân chứng nhằm chứng minh cho yêu cầu của mình. Ngoài ra, để đảm bảo sự công bằng này, tất cả mọi bằng chứng, luận điểm của một bên đều được thông báo cho bên còn lại nhằm tạo điều kiện cho các bên bảo vệ quyền lợi của mình một cách hợp pháp.
Trong mỗi loại tố tụng có một sự “bất cân bằng” khác nhau giữa các bên đương sự. Trong tố tụng hình sự Việt Nam, bên buộc tội là Viện kiểm sát vừa có chức năng cáo buộc, vừa có chức năng chỉ đạo điều tra và lại vừa có khả năng kiểm sát việc xét xử. Viện kiểm sát nắm trong tay quyền lực nhà nước và với sự giúp đỡ đắc lực của cơ quan điều tra nhà nước, là một sự bất cân bằng lớn đối với bị can, bị cáo. Bởi trước pháp luật, bị can, bị cáo và luật sư của họ chỉ là những cá nhân không có quyền lực nhà nước trao cho để tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ để bảo vệ mình. Họ phải dựa vào chính những chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập được. Vậy nên nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự thường đi chung với các nguyên tắc hỗ trợ thiết yếu khác như nguyên tắc bình đẳng giữa các bên trong tố tụng, nguyên tắc đảm bảo có luật sư bào chữa của bị can, bị cáo.
Tranh tụng trong tố tụng hành chính là quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án, được bắt đầu từ khi có yêu cầu khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.Theo đó, các chủ thể tham gia tố tụng được đưa ra chứng cứ, lý lẽ,căn cứ pháp lý để chứng minh,biện luận nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án theo những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hành chính quy định.
Luật tố tụng hành chính Việt Nam chưa quy định về nguyên tắc tranh tụng mà chỉ mới tiếp cận khái niệm tranh luận qua điều luật về trình tự phát biểu tranh luận (Điều 158). Chính vì vậy mà nội dung của nguyên tắc tranh tụng chưa được quy định đầy đủ, dẫn đến những tình trạng sau:
– Quyền được biết và trình bày ý kiến về yêu cầu, chứng cứ của người khác chưa được đảm bảo;
– Nghĩa vụ của Tòa án chưa được quy định phù hợp trong việc đảm bảo việc thực hiện quyền tranh tụng của đương sự bình đẳng, công khai, đúng pháp luật;
– Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của người bị kiện chưa có cơ chế đảm bảo thực hiện.
– Quyền thu thập chứng cứ của đương sự nói chung và của người khởi kiện chưa có cơ chế đảm bảo thực hiện;
– Thủ tục đối thoại trong giải quyết vụ án chưa quy định là bắt buộc cho nên quy định còn chưa rỏ ràng;
– Thủ tục tố tụng tại phiên tòa hiện nay vẫn còn nặng về thủ tục hỏi chứ không phải nặng về tranh tụngvàhỏi trước rồi mới đến tranh luận, làm hạn chế quyền tranh luận giữa các đương sự;
– Chưa quy định sự tham gia của luật sư là bắt buộc nên hạn chế tranh tụng giữa các đương sự;
Những hạn chế trên trong Luật Tố tụng hành chính cộng với những nguyên nhân khác như: sự bất bình đẳng hay nói cách khác là sự “yếu thế” của bên khởi kiện so với bên bị kiện, ý thức của của người tham gia tranh tụng, ý thức của Hội đồng xét xử, cơ chế bổ nhiệm thẩm phán, mô hình tổ chức Tòa án… làm cho nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính rất khó để đảm bảo thực hiện.
2. Sửa đổi Luật Tố tụng hành chính năm 2010
Trên cơ sở nhận thức về tranh tụng nói chung và tranh tụng trong tố tụng hành chính nói riêng,chúng tôi thấy cần sửa Luật Tố tụng hành chính năm 2010 ở những điểm sau:
Thứ nhất, ghi nhận tranh tụng là nguyên tắc của Luật tố tụng hành chính
Để cụ thể hóa Điều 103 Hiến pháp năm 2013 về nguyên tắc tranh tụng, luật Tố tụng hành chính phải đưa vào Chương một một điều nói về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính. Nội hàm của nguyên tắc này phải chứa đựng những vấn đề sau:
– Ghi nhận quyền được biết và trình bày ý kiến về yêu cầu, chứng cứ của người khác
– Xácđịnh nghĩa vụ của Tòa án trong việc đảm bảo việc thực hiện quyền tranh tụng của đương sự bình đẳng, công khai, đúng pháp luật;
– Xácđịnh cơ chế thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của người bị kiện;
– Xác định cơ chế thực hiện quyền thu thập chứng cứ của đương sự nói chung và của người khởi kiện nói riêng;
– Quy định thủ tục đối thoại là bắt buộc trong giải quyết vụ án hành chính và quy định cụ thể , rõ ràng hơn về đối thoại
– Quy định thủ tục tố tụng tại phiên tòa chủ yếu là tranh tụng và tranh luận trước rồi mới đến hỏi để đảm bảo quyền tranh luận giữa các đương sự;
– Quy định sự tham gia của luật sư là bắt buộc để đảm bảo quyền tranh tụng giữa các đương sự.
Phải cụ thể nội dung của nguyên tắc tranh tụng thành từng điều luật tương ứng.
Thứ hai, quy định đương sự có quyền được biết và trình bày ý kiến về yêu cầu, chứng cứ của người khác và nghĩa vụ của Tòa án cho phù hợp trong việc đảm bảo việc thực hiện quyền tranh tụng của đương sự.
Ví dụ: quy định nghĩa vụ của Tòa án trong việc thông báo cho đương sự chứng cứ của người khác và chứng cứ mà Tòa án thu thập được.
Thứ ba, quy định lại nội dung các điều khoản về thu thập, cung cấp chứng cứ
Luật Tố tụng hành chính 2010 quy định đương sự có quyền thu thập chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình (khoản 1 Điều 8, Luật Tố tụng hành chính 2010) và đồng thời quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ (khoản 1, Điều 77, Luật Tố tụng hành chính 2010). Quyền thu thập chứng cứ của đương sự được quy định nhưng không quy định cơ chế để thực hiện quyền đó nên khó có thể thực hiện quyền thu thập chứng cứ khi cần thiết. Vì chứng cứ có thể được lưu giữ ở cơ quan nhà nước nhưng nếu cơ quan nhà nước không tạo điều kiện cho việc thu thập chứng cứ thì cũng không có chế tài đối với họ. Vì vậy, song song với Điều 8 khoản 1 phải có điều luật tương ứng quy định về chế tài khi cá nhân, cơ quan, tổ chức không tạo đều kiện cho đương sự thu thập chứng cứ.
Đối với quy định về cung cấp, giao nộp chứng cứ hiện nay luật vẫn chưa quy định chế tài cụ thể, dẫn tới nhiều trường hợp đương sự không có chứng cứ, văn bản để phục vụ cho việc tranh tụng tại phiên tòa. Luật Tố tụng hình sự 2010 chỉ quy định rằng người không cung cấp sẽ bị xử lý theo pháp luật (điều 87, Luật Tố tụng hình sự 2010), không quy định cụ thể hình thức xử phạt, mức độ xử phạt để áp dụng. Chính vì vậy, chúng ta cần xây dựng chặt chẽ chế tài cho việc không cung cấp,giao nộp chứng cứ hoặc không cung cấp, giao nộp chứng cứ kịp thời bởi lẽ trong tố tụng hành chính, chứng cứ là yếu tố quantrọng nhất trong vụ kiện, quyết định thắng thua của các bên.
Thứ tư, cần quy định cụ thể, chi tiết về đối thoại trong khâu chuẩn bị xét xử vụ án hành chính
Trước tiên, đối thoại là một đặc thù riêng biệt của tố tụng hành chính so với các thủ tục tố tụng khác. Bởi, đối thoại chỉ diễn ra trong tố tụng tại toà án, ngoài hai bên đương sự có sự góp mặt của Thẩm phán nên nó chính là một thủ tục mang tính tranh tụng. Từ khi Luật Tố tụng hành chính 2010 có hiệu lực, cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện hành chính không cần phải thông qua thủ tục khiếu nại. Việc này có thể làm hạn chế sự thỏa thuận, trao đổi giữa các bên trong quan hệ quản lý nhà nước:khi phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp, chỉ có thể giải quyết thông qua khởi kiện, dù rằng có thể thoả thuận để giải quyết tranh chấp nhanh hơn. Vậy nên, đối thoại là thực sự cần thiết bởi việc này tạo cơ hội cho các bên được gặp mặt, trao đổi, đưa ra quan điểm của mình và cũng có thể dẫn tới việc giải quyết nhanh chóng vụ án hành chính.
Ngoài ra, sự khác biệt giữa đối thoại tại Tòa án và khiếu nại tại cơ quan hành chính tạo nên sự ưu việt và cần thiết của đối thoại. Trong đối thoại, còn có sự góp mặt của thẩm phán, vị trọng tài pháp luật, đại diện cho cơ quan tư pháp và có khả năng ghi nhận sự thoả thuận của các bên. Còn trong khiếu nại, cơ quan giải quyết khiếu nại lần đầu lại chính là cơ quan ban hành văn bản hành chính hay thực hiện hành vi hành chính bị khiếu nại. Việc này dẫn tới người khiếu nại thường không tin tưởng vào kết quả của cơ quan giải quyết khiếu nại và tiếp tục khởi kiện sau khi khiếu nại. Tuy nhiên, trong đối thoại, sự tham gia của Thẩm phán tạo nên một “thế cân bằng” về địa vị tố tụng cho người khởi kiện. Bởi cơ quan hành chính lúc đối thoại cũng chỉ là bên bị kiện, là đương sự có địa vị tố tụng ngang với người khởi kiện. Dù không được đưa ra phán quyết ngay trong phiên đối thoại nhưng Thẩm phán có thể đưa ra ý kiến, quan điểm pháp luật của họ nhằm giúp các bên giải quyết mau chóng vụ án hơn là đưa vụ án ra xét xử. Chính vì lẽ trên, nên quy định đối thoại trong tố tụng hành chính là bắt buộc.
Thứ năm, sửa đổi trình tự của thủ tục hỏi và nội dung của thủ tục tranh tụng tại phiên tòa
Tranh tụng tại phiên toà chính là tranh luận và đưa ra chứng cứ. Trong tố tụng hành chính nói riêng và tố tụng nói chung ở nước ta, tranh tụng còn diễn ra ở thủ tục hỏi do hai khâu này được tách ra riêng biệt. Muốn xây dựng mô hình tố tụng tôn trọng nguyên tắc tranh tụng thì quan trọng nhất phải xây dựng thật chặt chẽ các quy định về các nội dung này tại phiên tòa. Bởi lẽ, phiên tòa xét xử là khâu quan trọng nhất trong tố tụng, ghi nhận các chứng cứ được đem ra xem xét, các quan điểm, tranh luận của đương sự và chỉ khi xét xử mới hình thành ra bản án ràng buộc các bên. PGS-TS Nguyễn Thái Phúc cũng đã từng nhận định rằng tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm là sự tập trung cao nhất của tranh tụng dân chủ và không có tranh luận công bằng giữa các bên thì không nên đề cập nguyên tắc tranh tụng[4].
Vì vậy, Luật Tố tụng hành chính sửa đổi cần quy định những nội dung về tranh tụng tại phiên tòa sơ hành chính, nên nội dung chi tiết gồm:
– Quy định về những người tham gia tranh tụng theo hướng gồm có: người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, những người tham gia tố tụng khác và luật sư của họ.
– Quy định về quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ kiện hành chính theo hướng: những người tham gia tranh tụng có quyền nhắc lại những yêu cầu, căn cứ, bằng chứng để đề nghị Tòa án xem xét khi xét xử vụ kiện và có quyền yêu cầu những người tham gia tranh tụng khác trả lời.
– Quy định rõ về nội dung phát biểu của những người tham gia tranh tụng và cả nội dung đối đáp khi họ tham gia tranh tụng. Như vậy, phần tranh tụng mới đảm bảo được tính chất dân chủ, khách quan, những người tham gia tố tụng mới được trình bày trước Tòa án.
– Quy định về trình tự phát biểu khi tranh tụng. Chúng tôi cho rằng Luật Tố tụng hành chính sửa đổi, bổ sung sắp tới cần dành nhiều điều luật quy định về tranh luận hơn là quy định về hỏi. Quy định tại phiên tòa những nội dung mà Hội đồng xét xử được hỏi để tập trung cho phần tranh luận.
Những sửa đổi trên nên được không những áp dụng tại phiên tòa sơ thẩm mà còn tại phiên tòa phúc thẩm.
Thứ sáu, thay thế từ “tranh luận” bằng từ “tranh tụng”
Năm 2010, khi Luật Tố tụng hành chính được ban hành, chưa có cụm từ “tranh tụng” trong các văn bản pháp luật chính thống, cho nên xuyên suốt toàn bộ nội dung quy định của luật này chỉ sử dụng duy nhất cụm từ “tranh luận” với 20 lần lặp lại. Vì thế, đã tồn tại sự bất cập về nội dung ý nghĩa của cụm từ “tranh luận” mà những nhà làm luật mong muốn thật sự khi truyền đạt vào văn bản. Vì vậy để thống nhất về mặt từ ngữ, Luật Tố tụng hành chính sửa đổi, bổ sung nên sửa thuật ngữ “tranh luận” thành “ tranh tụng” trong các điều luật tương xứng cho phù hợp.
Thứ bảy, quy định sự tham gia bắt buộc của luật sư vào hoạt động giải quyết vụ án hành chính ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm
Sự tham gia của luật sư vào việc giải quyết vụ án hành chính có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng thể hiện ở hai khía cạnh sau:
Một là,đối với bên khởi kiện, người khởi kiện không phải lúc nào cũng hiểu biết về luật nên khả năng tranh tụng không phải lúc nào cũng đạt được mục đích là bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Có luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người khởi kiện sẽ “an tâm” hơn. Vấn đề đặt ra là nếu quy định Luật sư tham gia là bắt buộc, liệu ngưởi khởi kiện có điều kiện kinh tế để đảm bảo thực hiện quyền khởi kiện không? Chúng tôi cho rằng nếu người khởi kiên không có điều kiện kinh tế thì có tổ chức trợ giúp viên pháp lý thực hiện. Có Luật sư tham gia vụ án hành chính thì việc tranh trụng xảy ra tốt hơn vì người bị kiện cũng thận trọng hơn.
Hai là,đối với người bị kiện, có Luật sư bảo vệ quyền và nghĩa vụ của mình thì người bị kiện với tư cách được cho là “mạnh thế” hơn sẽ chú ý thực hiện đúng pháp luật hơn, tránh khuynh hương xem thường việc khởi kiện, vi phạm pháp luật về tố tụng. Vì vậy nếu người bị kiện có luật sư đại diện tham gia thì quá trình tranh tụng xảy ra đúng với bản chất của tranh tụng làm cho vụ án được giải quyết khách quan hơn, có căn cứ hơn và đúng pháp luật hơn.
CHÚ THÍCH
[1] Trần Thị Tố Thu, “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo thể hiện trong Luật tố tụng hành chính“. Truy cập lúc 10h ngày 19 tháng 9 năm 2014
[2] Trần Văn Độ, “Bản chất của tranh tụng tại phiên toà”, Tạp chí khoa học pháp ly ́(4) năm 2004.
[3] Trần Văn Độ, “Bản chất của tranh tụng tại phiên toà”, Tạp chí khoa học pháp lý (4) năm 2004.
[4] Nguyễn Thái Phúc, “Dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự và nguyên tắc tranh tụng”,Tạp chí Luật học(5), 9/2003, tr. 42.
Tác giả: TS. Nguyễn Thị Thương Huyền, ThS. Nguyễn Văn Thạch
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số Đặc san 02/2014, Trang 59-63
Like Fanpage Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời