Xác định phạm vi thẩm quyền của chính quyền địa phương
Tác giả: Tô Văn Hòa
Trên thế giới có một số quốc gia nhỏ tới mức không có Chính quyền địa phương, ví dụ, Singapore, Brunei, Vatican… Vấn đề quản trị quốc gia này ở góc độ nào đó là khá đơn giản bởi vì chỉ có một cấp chính quyền nằm ở trung ương điều hành công việc của toàn bộ quốc gia. Đối với các quốc gia có Chính quyền địa phương thì vấn đề phức tạp hơn nhiều. Càng có nhiều cấp Chính quyền địa phương thì mức độ phức tạp càng tăng.
Như đề cập trên đây, ở Việt Nam có 3 cấp đơn vị hành chính, ở mỗi cấp đều có Chính quyền địa phương và các đơn vị hành chính được phân chia theo mô hình tổ ong. Như vậy mỗi mét vuông lãnh thổ Việt Nam đều thuộc thẩm quyền của 4 cấp chính quyền, gồm chính quyền trung ương, Chính quyền địa phương cấp tỉnh, Chính quyền địa phương cấp huyện và Chính quyền địa phương cấp xã.
Bên cạnh đó, các nhà nước hiện đại cũng có xu hướng can thiệp sâu rộng vào mọi mặt đời sống xã hội. Những yếu tố này dẫn tới rủi ro chồng chéo về thẩm quyền của các cấp chính quyền là hết sức lớn.
Vì vậy, vấn đề quan trọng là làm thế nào để xác định được loại công việc nào do Chính quyền địa phương nào thực hiện và cơ chế chịu trách nhiệm khi thực hiện công việc đó.
Luật tổ chức Chính quyền địa phương trù liệu điều này thông qua ba cơ chế: Phân quyền, phân cấp và ủy quyền giữa các cấp chính quyền.
Như trên đã đề cập, Chính quyền địa phương có thẩm quyền chung trên tất cả các mặt đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục… trong phạm vi đơn vị hành chính mà nó phụ trách. Tuy nhiên, thẩm quyền của Chính quyền địa phương không phải là vô hạn trên phạm vi lãnh thổ đơn vị hành chính của mình. Với các quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015, có thể thấy phạm vi thẩm quyền của Chính quyền địa phương có được xác định dựa trên hai nguyên tắc:
Xem thêm bài viết về “Thẩm quyền”
- Một số ý kiến về khoản 2 Điều 410 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (Thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài của Tòa án) – ThS. Bành Quốc Tuấn
- Quy định thẩm quyền xử phạt theo tỷ lệ phần trăm có khống chế mức trần: Ưu điểm hay hạn chế – PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp & ThS Mai Thị Lâm
- Sửa đổi về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 – ThS. Đặng Thanh Hoa & TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng
- Thẩm quyền của Tòa án nhân dân đối với tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình – TS. Nguyễn Văn Tiến
- Bàn về thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ quan hành chính – TS. Lưu Quốc Thái
1. Chính quyền địa phương chỉ có những thẩm quyền hay nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể nào đã được các cơ quan nhà nước ở trung ương hay cơ quan nhà nước cấp trên quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật tương ứng
Chính quyền địa phương chỉ có những thẩm quyền hay nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể nào đã được các cơ quan nhà nước ở trung ương hay cơ quan nhà nước cấp trên quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật tương ứng. Việt Nam là quốc gia theo hình thức đơn nhất. Chủ quyền quốc gia nằm ở trung ương và do đó quyền lực tập trung toàn bộ ở cấp chính quyền trung ương. Các Chính quyền địa phương, mặc dù cũng do Nhân dân thành lập, song không phải là cấp chính quyền có chủ quyền và do đó không có thẩm quyền đương nhiên, hay còn gọi là thẩm quyền tự có. Trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan nhà nước ở trung ương hoặc cấp trên sẽ “giao” một số thẩm quyền hay nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể cho Chính quyền địa phương hay cơ quan Chính quyền địa phương thực hiện và việc “giao” đó là cơ sở hình thành phạm vi thẩm quyền mà Chính quyền địa phương được thực thi trong phạm vi đơn vị hành chính của mình.
2. Việc “giao” thẩm quyền, công việc, hay nhiệm vụ, quyền hạn cho Chính quyền địa phương phải được thực hiện qua một trong ba cơ chế: phân quyền, phân cấp, hoặc ủy quyền
Việc “giao” thẩm quyền, công việc, hay nhiệm vụ, quyền hạn cho Chính quyền địa phương phải được thực hiện qua một trong ba cơ chế: phân quyền, phân cấp, hoặc ủy quyền. Như vậy, Chính quyền địa phương và các cơ quan của Chính quyền địa phương chỉ có những phạm vi thẩm quyền được giao theo cơ chế phân quyền, phân cấp hoặc ủy quyền mà thôi. Mọi nhiệm vụ, quyền hạn mà Chính quyền địa phương thực hiện đều phải căn cứ trên các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan cấp trên ban hành có quy định về các nhiệm vụ, quyền hạn đó theo một trong ba cơ chế trên. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính quyền địa phương không hình thành một cách tùy tiện. Khi thẩm quyền được giao theo một trong ba cơ chế này thì chế độ trách nhiệm của Chính quyền địa phương và các cơ quan có liên quan khi thực hiện thẩm quyền được giao có cơ sở để xác định một cách rõ ràng. Nhờ vậy, hiệu quả công việc được bảo đảm. Ba cơ chế đó đã được Luật tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 quy định tương đói cụ thể.
Xem thêm bài viết về “Chính quyền địa phương“
- [PHÂN BIỆT] Chính quyền địa phương ở nông thôn và chính quyền địa phương ở đô thị – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Vai trò của chính quyền địa phương trong bộ máy nhà nước – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Chức năng kép (Chức năng tự quản và Chức năng chấp hành) của Chính quyền địa phương trong bộ máy nhà nước – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Chính quyền địa phương là gì? Một số khái niệm cơ bản về Chính quyền địa phương? – PGS.TS. Tô Văn Hòa
- Chính quyền địa phương Việt Nam vừa phân quyền và vừa không phân quyền/ vừa tự quản và vừa không tự quản – GS.TS. Nguyễn Đăng Dung
Cần lưu ý rằng, Luật tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 là luật đầu tiên quy định về cơ chế phân quyền, phân cấp và ủy quyền giữa các cấp chính quyền. Mặc dù quy định như vậy là một bước phát triển lớn song đây cũng là những vấn đề mới và còn những cách hiểu chưa thống nhất. Thực tiễn thực hiện các cơ chế này cũng chưa có nhiều và ngay cả các cơ quan nhà nước cũng còn nhiều thắc mắc khi triển khai thực hiện./.
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời