Nguồn của ngành Luật Hiến pháp Việt Nam
Tác giả: Tô Văn Hòa
Trong Lí luận chung về nhà nước và pháp luật, khái niệm “Nguồn của ngành luật” hay “Nguồn luật” dùng để chỉ những hình thức chứa đựng quy phạm pháp luật của một ngành luật. Nói cách khác, nguồn của ngành luật là những “nơi” mà người ta có thể tìm thấy quy phạm pháp luật của một ngành luật nào đó. Tuy là một khái niệm lí luận song “Nguồn của ngành luật” có ý nghĩa thực tiễn to lớn, bởi lẽ nếu hiểu biết một cách kĩ lưỡng về nguồn luật thì người hành nghề luật có khả năng tìm quy phạm pháp luật điều chỉnh một quy phạm xã hội một cách chính xác và nhanh nhất qua đó giúp đưa ra đáp án cho các khúc mắc pháp lí có liên quan một cách hiệu quả nhất.
Như vậy nói đến “Nguồn của ngành Luật Hiến pháp” là nói tới những hình thức chứa đựng quy phạm pháp luật của ngành Luật Hiến pháp. Có thể thấy hai khái niệm “Hệ thống ngành Luật Hiến pháp” và “Nguồn của ngành Luật Hiến pháp” cùng chỉ một đối tượng, đó là tập hợp các quy phạm pháp luật của ngành Luật Hiến pháp. Tuy nhiên, nếu “Hệ thống ngành Luật Hiến pháp” cho chúng ta thấy sự tập hợp có hệ thống của tổng thể các quy phạm pháp luật của ngành Luật Hiến pháp theo các nguyên tắc và các chế định thì “Nguồn của ngành Luật Hiến pháp” cho chúng ta biết các quy phạm pháp luật của ngành Luật Hiến pháp thường được chứa đựng, hay được tìm thấy ở đâu.
Nguồn của ngành Luật Hiến pháp Việt Nam bao gồm 05 nguồn, cụ thể như sau:
Xem thêm bài viết về “Nguồn của Luật”
- Văn bản quy phạm pháp luật là nguồn quan trọng nhất của pháp luật Việt Nam – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Ưu thế của văn bản quy phạm so với nguồn khác của pháp luật – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Ưu điểm và hạn chế của các loại nguồn của pháp luật – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Nguồn của pháp luật là gì? Các loại nguồn của pháp luật – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Bàn về khái niệm nguồn của Luật Hình sự Việt Nam – TS. Nguyễn Anh Tuấn
1. Hiến pháp
Đây là luật cơ bản của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, do Quốc hội ban hành và là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam.
2. Các luật điều chỉnh những quan hệ xã hội của ngành Luật Hiến pháp
Luật là loại văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành và có hiệu lực chỉ sau Hiến pháp. Hệ thống pháp luật Việt Nam có rất nhiều luật điều chỉnh các lĩnh vực khác nhau. Những luật nào điều chỉnh các QHXH là đối tượng điều chỉnh của ngành Luật Hiến pháp thì sẽ là nguồn của ngành Luật Hiến pháp. Những luật này bao gồm: Luật tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật tô chức TAND năm 2014, Luật tổ chức VKSND năm 2014, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật báo chí năm 2016, Luật bình đẳng giới năm 2006 v.v..
Luật là loại nguồn phổ biến nhất của ngành Luật Hiến pháp xét về mặt số lượng. Tất nhiên, các luật không điều chỉnh các lĩnh vực của Luật Hiến pháp thì không phải là nguồn của ngành Luật Hiến pháp, ví dụ Luật bảo vệ môi trường năm 2014, Bộ luật lao động năm 2012 v.v..
3. Một số pháp lệnh điều chỉnh những Quan hệ xã hội của ngành Luật Hiến pháp
Pháp lệnh là loại văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban thường vụ Quốc hội, cơ quan thường trực của Quốc hội ban hành. Loại văn bản này có hiệu lực pháp lí sau luật của Quốc hội. Nếu pháp lệnh điều chỉnh các lĩnh vực của ngành Luật Hiến pháp thì nó sẽ trở thành nguồn của Luật Hiến pháp, ví dụ Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004. Tuy nhiên, số lượng các pháp lệnh là nguồn của ngành Luật Hiến pháp rất ít do vai trò làm luật của Quốc hội ngày càng tăng lên.
4. Một số nghị quyết của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh những QHXH của ngành Luật Hiến pháp
Cả Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội đều ban hành nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật. Tất nhiên, các nghị quyết của Quốc hội có hiệu lực pháp lí ngang với luật và nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội có hiệu lực pháp lí ngang với pháp lệnh. Cũng giống như pháp lệnh, có tương đối hiếm các nghị quyết là nguồn của ngành Luật Hiến pháp.
5. Một số văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc HĐND cấp tỉnh ban hành
Đây là những văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí dưới pháp lệnh. Tuy nhiên, số lượng các văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật của ngành Luật Hiến pháp thuộc loại này cũng rất ít, ví dụ nghị định của Chính phủ quy định về quy chế làm việc của Chính phủ hay các nghị quyết của hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành quy chế kì họp của hội đồng nhân dân.
Xem thêm bài viết về “Ngành Luật Hiến pháp”
- Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp – PGS. TS. Tô Văn Hòa
6. Đặc điểm của nguồn ngành Luật Hiến pháp
Nhìn một cách khái quát, có thể thấy nguồn của ngành Luật Hiến pháp có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, nguồn của ngành Luật Hiến pháp đều là các văn bản quy phạm pháp luật, tức là văn bản có chứa đựng các quy phạm pháp luật, đối lập với văn bản áp dụng pháp luật, tức là văn bản quyết định về hậu quả pháp lí trong một trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, đây không phải đặc điểm riêng của nguồn của ngành Luật Hiến pháp. Nhiều ngành luật khác của Việt Nam như Luật hành chính, Luật dân sự, Luật hình sự… cũng có đặc điểm này.
Thứ hai, Hiến pháp là nguồn chủ yếu của ngành Luật Hiến pháp và toàn bộ Hiến pháp là nguồn của ngành Luật Hiến pháp. Đây là đặc điểm riêng của nguồn của ngành Luật Hiến pháp. Các ngành luật khác của hệ thống pháp luật Việt Nam cũng lấy Hiến pháp làm nguồn vì có chứa đựng các quy phạm mang tính nguyên tắc của ngành luật đó, ví dụ ngành luật dân sự, luật hình sự… Tuy nhiên nguồn chủ yếu của các ngành luật đó thường là các luật tương ứng. Các ngành luật khác cũng không lấy toàn bộ điều khoản của Hiến pháp làm nguồn mà chỉ những điều khoản có chứa các quy định liên quan.
Thứ ba, tuyệt đại đa số nguồn của ngành Luật Hiến pháp là các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đó là Hiến pháp và các luật. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, ngoài Hiến pháp và luật còn có nhiều loại hình văn bản quy phạm pháp luật khác như nghị định, nghị quyết, quyết định, thông tư. Tất cả các văn bản quy phạm pháp luật này đều có hiệu lực pháp lí thấp hơn Hiến pháp và luật. Trong phạm vi nguồn của ngành Luật Hiến pháp, số lượng các văn bản thuộc loại này rất ít. Loại nguồn chủ yếu của ngành Luật Hiến pháp là rất nhiều luật khác nhau điều chỉnh các lĩnh vực có liên quan. Trong quá trình học Luật Hiến pháp, người học sẽ nghiên cứu chủ yếu loại hình văn bản này. Đối với các ngành luật khác thường chỉ có một hoặc một số luật là nguồn chủ yếu, ví dụ ngành luật dân sự có Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ; ngành luật hình sự có Bộ luật hình sự; ngành luật hành chính có Luật xử lí vi phạm hành chính, Luật khiếu nại, Luật tố cáo…; ngành luật thương mại có Luật thương mại, Luật doanh nghiệp v.v..
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời